Khái quát lịch sử Việt Nam

Khái quát lịch sử Việt Nam

Gửi bàigửi bởi hungcay » 22 Tháng 4 2011

Thời kỳ dựng nước
♦ Nước Văn Lang:
Với văn hoá Ðông Sơn, tại Việt Nam đã xuất hiện một nhà nước sơ khai. Tính thống nhất văn hoá rộng lớn trong thời kỳ Ðông Sơn, từ biên giới Việt - Trung ở phía Bắc đến bờ sông Gianh ở phía Nam, cũng phản ánh sự tồn tại của một quốc gia của người Việt cổ. Ðó là quốc gia Văn Lang của các vua Hùng.
♦ Nước Âu Lạc:
Tiếp sau quốc gia các vua Hùng là nước Âu Lạc do An Dương Vương Thục Phán thành lập vào giữa thế kỷ 3 trước Công nguyên. Quốc gia này đã được xác nhận trong Sử ký của nhà sử học Trung Quốc Tư Mã Thiên. Một kỳ tích của An Dương Vương là xây dựng thành Cổ Loa với ba vòng thành, ngày nay vẫn còn dấu tích.
♦ Nước Chămpa:
Ở Nam Trung Bộ, các văn hoá Tiền Sa Huỳnh cũng phát triển lên thời đại sắt. Tiêu biểu cho nền văn hoá này là những khu mộ chum chứa nhiều công cụ bằng sắt, cùng với đồ trang sức bằng mã não hay ngọc bích. Văn hoá này phân bố rộng từ Thừa Thiên cho đến lưu vực sông Ðồng Nai. Chủ nhân của văn hóa Sa Huỳnh có thể là tổ tiên của người Chăm, những người đã xây dựng vương quốc Chămpa.
Nguyễn Tiến Hùng sưu tầm 17:12 13/10/2005
Giai đoạn Bắc thuộc (111 TCN - 938)
Năm 207 trước công nguyên, nước Âu Lạc bị Triệu Ðà, vua của nước Nam Việt chiếm, và đến năm 111 trước công nguyên, nước Nam Việt bị đế quốc Hán tiêu diệt. Âu Lạc bị chuyển sang tay nhà Hán và bị chia thành các quận, huyện. Từ đây, Việt Nam bước vào thời kỳ chịu sự thống trị của các đế chế Trung Hoa, kéo dài trong mười một thế kỷ.
Chính trị nhà Tây Hán: Chiếm nước ta rồi cải tên nước là Giao Chỉ và chia ra làm 9 quận, mỗi quận có quan thái thú coi việc cai trị trong quận và có quan thứ sử để giám sát các quận. Ở trong quận Giao Chỉ thì có những Lạc tướng hay Lạc hầu vẫn được thế tập giữ quyền cai trị các bộ lạc.
1. Nam Hải (Quảng Ðông).
2. Thương Ngô (Quảng Tây).
3. Uất Lâm (Quảng Tây).
4. Hợp Phố ( Quảng Ðông).
5. Giao Chỉ.
6. Giao Chỉ.
7. Nhật Nam.
8. Châu Nhai (đảo Hải Nam).
9. Ðạm Nhĩ (đảo Hải Nam).
♦ Bắc thuộc lần thứ hai (từ năm 43 - 544):
Chính trị Nhà Ðông Hán (năm 25-220): Mã Viện đánh được Trưng Vương, rồi chỉnh đốn binh lương, đem quân đi đánh dẹp các nơi, đi đến đâu xây thành đắp luỹ đến đấy và cải cách chính trị trong các châu quận. Ðem phủ trị về đóng ở Mê Linh. Từ đó chính trị nhà Ðông Hán càng ngày càng ngặt thêm, quan lại sang cai trị tham lam độc ác, bắt dân lên rừng xuống bể để tìm những châu báu.
Ðời Tam quốc (năm 220-265):
Nhà Ðông Ngô (222-280): Nhà Ðông Hán mất ngôi thì nước Tàu phân ra là ba nước: Bắc Ngụy, Tây Thục, Ðông Ngô. Ðất Giao Châu bấy giờ thuộc về Ðông Ngô.
Nhà Tấn (năm 265-420): Nhà Tấn làm vua được 50 năm thì mất cả đất ở phía tây bắc. Dòng dõi nhà vua lại dựng nghiệp ở phía đông nam, đóng đô ở thành Kiến Nghiệp (thành Nam Kinh) gọi là nhà Ðông Tấn. Ðất Giao Châu ta vẫn thuộc nhà Tấn. Những quan lại sang cai trị thỉnh thoảng mới gặp đuợc người nhân từ tử tế, thì dân mới được yên ổn. Còn thì những người tham lam độc ác làm cho nhân dân phải lầm than khổ sở.
Nam Bắc triều (năm 420-588): Năm Canh thân (420) Lưu Dụ cướp ngôi nhà Ðông Tấn, lập ra nhà Tống ở phía nam. Lúc bấy giờ ở phía bắc thì nhà Ngụy gồm cả nước Lương, nước Yên, nước Hạ. Nước Tàu phân ra làm Nam triều và Bắc triều. Bắc triều thì có nhà Ngụy, nhà Tề, nhà Chu nối nhau làm vua; Nam triều thì có nhà Tống, nhà Tề, nhà Lương và nhà Trần kế nghiệp trị vì. Lúc bấy giờ Giao Châu phụ thuộc về Nam triều.
♦ Bắc thuộc lần thứ ba (603 -939):

Nhà Tuỳ (năm 589-617): Làm vua bên Tàu được 28 năm thì mất.
Nhà Ðường (năm 618-907): Năm Mậu Dần (618) nhà Tuỳ mất nước; nhà Ðường kế nghiệp làm vua nước Tàu. Ðến năm tân tị (621) vua Cao Tổ nhà Ðường sai Khâu Hòa làm đại tổng quản sang cai trị Giao Châu. Nhà Ðường cai trị nước ta nghiệt ngã. Năm Kỷ Mão (679) vua Cao Tông nhà Ðường chia đất Giao Châu ra làm 12 châu, 59 huyện và đặt An Nam đô hộ phủ. Nước ta gọi là An Nam khởi đầu từ đấy.
Mười hai Châu đời Ðường:
1. Giao Châu - có 8 huyện (Hà Nội, Nam Ðịnh...).
2. Lục Châu - có 3 huyện (Quảng Yên, Lạng Sơn).
3. Phúc Lộc Châu - có 3 huyện (Sơn Tây).
4. Phong Châu - có 3 huyện (Sơn Tây).
5. Thang Châu -có 3 huyện.
6. Trường Châu - có 4 huyện.
7. Chi Châu -có 7 huyện.
8. Võ Nga Châu -có 7 huyện.
9. Võ An Châu-có 2 huyện.
10. Ái Châu - có 6 huyện (Thanh Hóa)
11. Hoan Châu - có 4 huyện (Nghệ An)
12. Diễn Châu - có 7 huyện ( Nghệ An)
Theo lệ cứ hàng năm phải triều cống vua nhà Ðường. Các cuộc nổi dậy của nhân dân dành chủ quyền như: khởi nghĩa của Mai Thúc Loan (năm 722), khởi nghĩa của Phùng Hưng (năm 766-791).

Ðời Ngũ Quí (năm 907 - 959): Năm Đinh Mão (907) nhà Ðường mất ngôi, nhà Hậu Lương, Hậu Ðường, Hậu Tấn, Hậu Hán, Hậu Chu, tranh nhau làm vua. Mỗi nhà được mấy năm, gồm tất cả 52 năm, gọi là Ngũ Quí hay là Ngũ Ðại. Tại nước ta liên tục các cuộc dấy binh chống lại đô hộ của phía Bắc và các chính quyền tự chủ được thành lập.

Các chính quyền tự chủ (43-905)
Trong suốt thời kỳ này, nhân dân Việt Nam luôn nổi dậy để giành lại nền độc lập, mở đầu là cuộc khởi nghĩa Hai Bà Trưng (40-43). Tiếp đó là cuộc khởi nghĩa Bà Triệu (năm 248). Giữa thế kỷ 6, Lý Bí đã lãnh đạo dân Giao Châu nổi lên đánh đuổi Tiêu Tư, chiếm giữ thành Long Biên, lập nên nhà nước độc lập đầu tiên, nước Vạn Xuân, nhưng chỉ tồn tại trong một thời gian ngắn. Dưới ách thống trị của các đế chế Trung Hoa đã bùng lên nhiều cuộc khởi nghĩa: Mai Thúc Loan (722), Phùng Hưng (766-791),... và cuối cùng, với chiến thắng quân Nam Hán trên sông Bạch Ðằng năm 938, Ngô Quyền đã chấm dứt thời kỳ thống trị Trung Quốc hơn một nghìn năm, khôi phục nền độc lập cho đất nước.
Sửa lần cuối bởi hungcay vào ngày 22 Tháng 4 2011 với 1 lần sửa trong tổng số.
..đừng chỉ đọc, hãy bình luận hoặc gửi bài mỗi lần vào diễn đàn..!!
Hình ảnh
Hình đại diện của thành viên
hungcay
Super Guide
Super Guide
 
Bài viết: 298
Ngày tham gia: 16 Tháng 4 2011

Re: Khái quát lịch sử Việt Nam

Gửi bàigửi bởi hungcay » 22 Tháng 4 2011

♦ Chính quyền Trưng Nữ Vương (năm 40-43):

Huý là Trưng Trắc, con gái của Lạc tướng Mê Linh (đất Mê Linh nay thuộc vùng giáp giới giữa Hà Tây với Vĩnh Phúc và ngoại thành Hà Nội). Thân sinh mất sớm, Trưng Trắc và em gái là Trưng Nhị được thân mẫu là bà Ma Thiện (cũng có truyền thuyết nói là bà Trần Thị Ðoan) nuôi dưỡng. Hiện chưa rõ Trưng Trắc sinh năm nào, chỉ biết khi Tô Ðịnh được nhà Ðông Hán sai sang làm Thái Thú ở Giao Chỉ (năm 34), thì Trưng Trắc đã trưởng thành và kết hôn với con trai của Lạc tướng Chu Diên là Thi Sách (đất Chu Diên nay là vùng giáp giới giữa Hà Tây với Hà Nam). Bấy giờ, nhân lòng căm phẫn của nhân dân ta đối với chính sách thống trị tàn bạo của nhà Ðông Hán, lại cũng nhân vì Thi Sách bị Thái Thú Tô Ðịnh giết hại, Trưng Trắc cùng em là Trưng Nhị và nhiều bậc hào kết khác, phát động và lãnh đạo cuộc khởi nghĩa có quy mô rất lớn. Khởi nghĩa bùng nổ vào cuối năm 39 đầu năm 40 và nhanh chóng được nhân dân cả nước nhất tề hưởng ứng. Tô Ðịnh phải hốt hoảng bỏ chạy về nước.
Chính quyền Trưng Nữ Vương tồn tại được trong khoảng gần ba năm (từ đầu năm 40 đến cuối năm 42, đầu năm 43). Sử gia Lê Văn Hưu (1230 - 1322) viết: "Trưng Trắc, Trưng Nhị là đàn bà mà hô một tiếng cũng có thể khiến được các quận: Giao Chỉ, Cửu Chân, Nhật Nam và Hợp Phố cùng 65 thành ở Lĩnh Ngoại hưởng ứng, việc dựng nước xưng vương dễ như trở bàn tay. Xem thế cũng đủ biết hình thế đất Việt có thể dựng được nghiệp bá vương." Nhà Ðông Hán đã phải cử tên lão tướng khét tiếng tàn bạo và dày dạn kinh nghiệm trận mạc là Mã Viện sang đàn áp mới tiêu diệt được lực lượng và chính quyền Hai Bà Trưng.

♦ Chính quyền của Bà Triệu:

Bà Triệu (Triệu Thị Trinh) người đất Quân Yên (nay thuộc huyện Yên Định, tỉnh Thanh Hoá), sinh năm nào chưa rõ, chỉ biết khi cùng anh là Triệu Quốc Ðạt khởi xướng và lãnh đạo cuộc chiến đấu chống ách đô hộ của quân Ðông Ngô (năm 248), Bà đã là một cô gái ở độ tuổi khoảng trên dưới hai mươi. Bấy giờ, nhiều người khuyên Bà nên lập gia đình, xây dựng hạnh phúc riêng, nhưng Bà đã khảng khái trả lời : " Tôi muốn cưỡi cơn gió mạnh đạp ngọn sóng dữ, chém cá tràng kình ở biển Đông, đánh đuổi quân Ngô, cởi ách nô lệ cho nhân dân chớ không chịu khom lưng làm tì thiếp người ta". Sau câu nói bừng bừng khẩu khí anh hùng đó, Bà đã quả cảm phát động khởi nghĩa. Quân Ngô sau nhiều phen thất bại, đã tìm đủ mọi thủ đoạn xảo quyệt, thậm chí đã dùng cả tước hiệu Lệ Hải Bà Vương để chiêu dụ Bà, nhưng ý chí của Bà trước sau vẫn không hề bị lung lạc. Cuối cùng, nhà Ngô đã phải sai viên tướng lừng danh là Lục Dận đem đại binh sang đàn áp. Bà Triệu cùng hàng loạt nghĩa binh đã anh dũng hi sinh vào năm 248.
Về thực chất, bộ chỉ huy khởi nghĩa do Bà Triệu cầm đầu cũng là một guồng máy chính quyền. Bà Triệu chưa xưng đế hay xưng vương, cũng chưa đặt quốc hiệu hay niên hiệu, những rõ ràng, guồng máy chính quyền sơ khai do Bà Triệu lập ra, hoàn toàn biệt lập và đối nghịch sâu sắc với chính quyền đô hộ của quân Ngô.

♦ Chính quyền nhà Tiền Lý (542-602):

Năm Nhâm Tuất (542), Lý Bí (còn có tên gọi khác là Lý Bôn) đã lãnh đạo nhân dân vùng dậy lật nhào ách đô hộ của nhà Lương (một triều đại của Nam Triều ở Trung Quốc thời Nam Bắc Triều). Chỉ trong một thời gian rất ngắn. Lý Bí đã giành được thắng lợi và thiết lập một hệ thống chính quyền độc lập, tự chủ riêng. Nhiều bộ sử cũ vẫn gọi khoảng thời gian từ năm 542 đến năm 602 là thời Tiền Lý, dẫu thực tế không hoàn toàn như vậy. Xét rằng, các chính quyền khác xuất hiện trong khoảng thời gian nào, tuy không đúng là của nhà Tiền Lý nhưng lại được xây dựng trên cơ sở thắng lợi của nhà Tiền Lý, cho nên, chúng tôi cũng gộp chung mà gọi là thời Tiền Lý.

Thời Tiền Lý có mấy hệ thống chính quyền sau đây:

Lý Nam Ðế (542-548):
Họ và tên: Lý Bí (còn có tên khác là Lý Bôn).
Nguyên quán: Thái Bình (đất này nay thuộc vùng tiếp giáp giữa huyện Thạch Thất và thị xã Sơn Tây, tỉnh Hà Tây).
Hiện chưa rõ năm sinh. Năm 542, Lý Bí phát động khởi nghĩa và chỉ trong vòng ba tháng đã quét sạch quân Lương ra khỏi bờ cõi. Năm Giáp Tý (544), Lý Bí lên ngôi hoàng đế, xưng là Lý Nam Ðế, đặt quốc hiệu là Vạn Xuân, niên hiệu là Ðại Ðức (cũng có thư tịch cổ chép là Thiên Ðức). Liên tục trong hai năm (545 và 546), nhà Lương cho quân sang đàn áp. Sau trận thất bại ở hồ Ðiển Triệt (Vĩnh Phúc), Lý Nam Ðế giao quyền bính lại cho Triệu Quang Phục rồi tạm lánh vào động Khuất Lão (Vĩnh Phúc) và mất ở đấy vào năm 548. Do chưa rõ năm sinh nên chưa rõ Lý Nam Ðế bao nhiêu tuổi.

Triệu Việt Vương (546-571):
Họ và tên: Triệu Quang Phục
Nguyên quán: Phủ Vĩnh Tường (nay là vùng giáp giới giữa Hà Tây với Vĩnh Phúc). Khi Lý Bí phát động khởi nghĩa, Triệu Quang Phục và cha là Triệu Túc cùng hưởng ứng. Khi Lý Bí xưng là Lý Nam Ðế, Triệu Quang Phục được phong tới chức Tả Tướng. Năm 546, sau thất bại trong trận đánh ở hồ Ðiển Triệt, Triệu Quang Phục được Lý Nam Ðế uỷ thác quyền trông coi nghĩa binh. Triệu Quang Phục đã đưa lực lượng về đầm Dạ Trạch (đầm này nay thuộc Châu Giang, Hưng Yên) và tổ chức chiến đấu tại đây. Năm 548, sau khi nghe tin Lý Bí đã qua đời, Triệu Quang Phục xưng là Triệu Việt Vương. Năm 557, Triệu Việt Vương đã đánh tan lực lượng đi càn quét của nhà Lương, giành lại quyền tự chủ cho đất nước, đồng thời, thành lập một guộng máy chính quyền độc lập do ông đứng đầu. Năm 571, do bị Lý Phật Tử tấn công bất ngờ, Triệu Việt Vương thua trận và bị giết. Do chưa rõ năm sinh nên chưa rõ Triệu Việt Vương thọ bao nhiêu tuổi.

Lý Phật Tử (556-602):
Năm 546, khi thua trận ở Ðiển Triệt, lực lượng của Lý Nam Ðế bị chia làm hai. Bộ phận thứ nhất do Triệu Quang Phục (người về sau xưng là Triệu Việt Vương) cầm đầu. Triệu Quang Phục là vị tướng được Lý Nam Ðế tin cậy mà uỷ thác mọi quyền bính. Bộ phận thứ hai do tướng Lý Phục Man cầm đầu. Lý Phục Man họ tên gì chưa rõ, ông vì có công chinh phục người Man, được Lý Nam Ðế yêu quý mà đặc tên là Phục Man, lại cho được lấy họ Lý, sử nhân đó gọi là Lý Phục Man. Ông người làng Yên Sở. Làng này nay thuộc huyện Ðan Phượng, tỉnh Hà Tây.
Cũng năm 546, nếu Triệu Quang Phục bám trụ ở đầm Dạ Trạch và chiến đấu ngoan cường với quân nhà Lương, thì Lý Phục Man đã đem lực lượng chạy vào vùng phía tây Thanh Hoá ngày nay. Năm 555, Lý Phục Man mất, một vị tướng người cùng họ với Lý Nam Ðế là Lý Phật Tử lên thay. Năm 557, khi Triệu Việt Vương đánh tan quân nhà Lương thì Lý Phật Tử cũng lập tức đem quân đánh Triệu Việt Vương để giành quyền binh.
Sau nhiều trận không phân thắng bại, hai bên tạm lấy vùng đất tương ứng với huyện Từ Liêm (Hà Nội) ngày nay làm ranh giới. Từ đất này trở về Nam thì do Lý Phật Tử cai quản, trở ra Bắc thì do Triệu Việt Vương cai quản.
Lý Phật Tử cho con trai là Nhã Lang kết hôn với con gái của Triệu Việt Vương là Cảo Nương, mượn danh nghĩa thông gia để làm cho Triệu Việt Vương mất cảnh giác. Năm 571, Lý Phật Tử bất ngờ cho quân đánh úp, khiến Triệu Việt Vương bị đại bại và bị giết. Lý Phật Tử thâu tóm được mọi quyền hành. Sử cũ gọi đó là Hậu Lý Nam Ðế. Năm 581, nhà Tuỳ được dựng lên. Sau một thời gian lo củng cố quyền thống trị ở Trung Quốc, năm 602, nhà Tuỳ liền dùng áp lực quân sự, khiến Lý Phật Tử phải đầu hàng. Không thấy sử cũ ghi chép gì về số phận của Lý Phật Tử sau khi đầu hàng. Chưa rõ năm sinh và năm mất nên chưa rõ Lý Phật Tử thọ bao nhiêu tuổi.
..đừng chỉ đọc, hãy bình luận hoặc gửi bài mỗi lần vào diễn đàn..!!
Hình ảnh
Hình đại diện của thành viên
hungcay
Super Guide
Super Guide
 
Bài viết: 298
Ngày tham gia: 16 Tháng 4 2011

Re: Khái quát lịch sử Việt Nam

Gửi bàigửi bởi hungcay » 22 Tháng 4 2011

♦ Chính quyền Ðinh Kiến (687):

Từ năm 618 đến năm 905, đất nước ta bị nhà Ðường đô hộ. Năm 679, nhà Ðường lập ra An Nam Ðô Hộ phủ, sử Trung Quốc bắt đầu gọi ta là An Nam kể từ đó.
Năm 687, quan cai quản An Nam Ðô Hộ Phủ của nhà Ðường là Lưu Diên Hựu thu thuế rất tham tàn, khiến cho nhân dân ta rất căm phẫn. Nhân cơ hội đó, một vị hào trưởng là Lý Tự Tiên (nay vẫn chưa rõ quê quán) đã bí mật tổ chức một cuộc khởi nghĩa lớn. Nhưng cơ mưu bị bại lộ, Lý Tự Tiên bị Lưu Diên Hựu giết chết. Tiếp nối sự nghiệp của Lý Tự Tiên, một vị hào trưởng cũng là một thuộc tướng của Lý Tự Tiên đã lãnh đạo nhân dân vùng dậy. Vị hào trưởng ấy là Ðinh Kiến.
Ngay trong năm 687, Ðinh Kiến đã giết chết được Lưu Diên Hựu và chiếm được phủ đô hộ là thành Tống Bình (tức Hà Nội ngày nay), đồng thời, nhanh chóng thiết lập một hệ thống chính quyền do ông đứng đầu. Ðinh Kiến chưa xưng đế hay xưng vương, cũng chưa đặt quốc hiệu hay niên hiệu, nhưng chính quyền do ông đứng đầu thực sự là chính quyền độc lập và tự chủ. Hiện vẫn chưa rõ quê quán cũng như năm sinh và năm mất của Ðinh Kiến.

♦ Chính quyền Mai Hắc Ðế (722):

Họ và tên: Mai Thúc Loan (còn có tên khác là Mai Huyền Thành).
Sinh quán: huyện Thiên Lộ (nay đất sinh quán của ông thuộc Can Lộc, tỉnh Hà Tĩnh).
Sau gia đình ông di cư về vùng Ngọc Trường (vùng này, nay thuộc huyện Nam Ðàn, tỉnh Nghệ An). Mai Thúc Loan sinh trưởng trong một gia đình nghèo, bản thân ông luôn bị quan lại nhà Ðường bắt phải đi phu, phục dịch rất vất vả. Năm 722, ông phát động và lãnh đạo một cuộc khởi nghĩa lớn. Cũng ngay năm này, Mai Thúc Loan đã cho xây dựng đại bản doanh tại Hùng Sơn (tục danh là Núi Ðụn) và lập căn cứ dọc theo bờ sông Lam (Nghệ An). Ðồng thời, để quy tụ lòng người, ông đã lên ngôi hoàng đế, xưng là Mai Hắc Ðế (ông vua người họ Mai, da đen). Mai Hắc Ðế đã lãnh đạo nghĩa quân, đánh cho quan đô hộ của nhà Ðường lúc ấy là Quang Sở Khách phải hốt hoảng tháo chạy về nước. Nhà Ðường đã phải huy động một lực lượng lớn mới đàn áp được Mai Hắc Ðế và nghĩa sĩ của ông. Mai Hắc Ðế mất năm 722, do chưa rõ năm sinh nên chưa rõ thọ bao nhiêu tuổi.

♦ Chính quyền họ Phùng (? - 791):

Bố Cái Ðại Vương (?-789):
Họ và tên: Phùng Hưng tự là Công Phấn.
Nguyên quán: Ðường Lâm, Phong Châu (đất này nay thuộc huyện Ba Vì - Hà Tây).
Phùng Hưng sinh trưởng trong một gia đình đời đời làm quan lang của vùng Phong Châu. Bấy giờ, nhà Ðường đô hộ nước ta. Quan đô hộ là Cao Chính Bình khét tiếng tham lam và tàn bạo, khiến cho nhân dân ta căm phẫn, đồng thời, binh lính của Cao Chính Bình cũng chống đối quyết liệt. Nhân cơ hội đó, Phùng Hưng phát động khởi nghĩa. Hiện chưa rõ khởi nghĩa bùng nổ vào năm nào. Các nhà nghiên cứu cho rằng, Phùng Hưng phát động khởi nghĩa trong khoảng từ năm 766 đến năm 779. Chỉ trong vòng một thời gian ngắn, Phùng Hưng đã chiếm được thành Tống Bình. Sau đó, thúc đẩy các lực lượng còn lại của nhà Ðường ở trên đất nước ta, đồng thời thiết lập một bộ máy chính quyền do ông đứng đầu. Khoảng 7 năm sau khi cầm đầu guồng máy chính quyền này Phùng Hưng qua đời (năm 789). Sau khi mất, ông được truy tôn là Bố Cái Ðại Vương. Do chưa rõ năm sinh nên chưa rõ ông thọ bao nhiêu tuổi.

Phùng An (789-791):
Con của Bố Cái Ðại Vương Phùng Hưng, không rõ sinh năm nào. Nối nghiệp cha, cầm đầu guồng máy chính quyền độc lập và tự chủ kể từ năm 789. Năm 791, nhà Ðường cử viên tướng nổi tiếng xảo quyệt là Triệu Xương sang đàn áp. Phùng An đầu hàng. Sau, không rõ số phận của Phùng An ra sao.

♦ Chính quyền Dương Thanh (819-820):

Dương Thanh là một vị hào trưởng của đất Hoan Châu (đất này nay thuộc Nghệ An) và cũng là người được nhà Ðường cho làm Thứ Sử của châu này. Biết Dương Thanh là người giàu lòng yêu nước, quan đô hộ của nhà Ðường là Lý Tượng Cổ đã dụng mưu kế để làm giảm uy tín của ông, đồng thời, tách ông ra khỏi dân châu Hoan. Năm 819, Dương Thanh đã phát động cuộc khởi nghĩa lớn, giết chết được Lý Tượng Cổ, đồng thời thiết lập được hệ thống chính quyền tự chủ do ông đứng đầu Sau nhiều phen đàn áp nhưng bị thất bại, nhà Ðường đã dùng kế li gián để chia rẽ lực lượng của Dương Thanh. Ông bị cô lập dần, để rồi cuối cùng, bị tru di tam tộc vào năm 820. Hiện chưa rõ năm sinh nên chưa rõ ông thọ bao nhiêu tuổi. Cũng như nhiều vị thủ lĩnh kiệt xuất khác, Dương Thanh không xưng đế hay xưng vương, chưa đặt quốc hiệu và niên hiệu, nhưng chính quyền do ông thiết lập ra thực sự là chính quyền độc lập và tự chủ.
Trên đây là những hệ thống chính quyền tiêu biểu nhất, được thành lập trong hoặc sau thắng lợi của các cuộc khởi nghĩa chống Bắc thuộc, gồm nhiều quy mô và tính chất khác nhau. Hẳn nhiên, đó cũng chưa phải là tất cả, nhưng, dẫu nhìn từ bất cứ góc độ nào thì đó cũng thực sự là tinh hoa của lịch sử chống xâm lăng thời Bắc thuộc.

Nguyễn Tiến Hùng sưu tầm 19:43 13/10/2005
..đừng chỉ đọc, hãy bình luận hoặc gửi bài mỗi lần vào diễn đàn..!!
Hình ảnh
Hình đại diện của thành viên
hungcay
Super Guide
Super Guide
 
Bài viết: 298
Ngày tham gia: 16 Tháng 4 2011

Re: Khái quát lịch sử Việt Nam

Gửi bàigửi bởi hungcay » 22 Tháng 4 2011

Giai đoạn độc lập
Triều Ngô Vương (Từ năm 939 - 965)
Ngô Vương (939-944)
Hậu Ngô Vương (950-965) (Chi tiết)
Nhà Đinh
Nhà Ðinh trị vì đất nước ta trong khoảng 13 năm (968-980), trải qua 2 đời vua, bao gồm:
- Đinh Tiên Hoàng;
- Đinh Toàn. (Chi tiết)
Nhà Tiền Lê
Nhà Tiền Lê trị vì đất nước ta trong 29 năm, trải qua 3 đời vua, bao gồm:
- Lê Đại Hành (980-1005)
- Lê Trung Tông (1005)
- Lê Long Đĩnh (1005-1009) (Chi tiết)
Nhà Lý
Nhà Lý trị vì đất nước ta được 215 năm (1010 - 1225), qua 9 đời vua, bao gồm:
- - Lý Thái Tổ (1010-1028)
- Lý Thái Tông (1028-1054)
- Lý Thánh Tông (1054-1072)
- Lý Nhân Tông (1072-1127)
- Lý Thần Tông (1128-1138)
- - - Lý Anh Tông (1138-1175)
- Lý Cao Tông (1176-1210)
- Lý Huệ Tông (1211-1224).
- Lý Chiêu Hoàng (1225)
Nhà Trần
Nhà Trần trị vì đất nước ta được 175 năm (1225 - 1400), qua 12 đời vua, bao gồm:
Trần Thái Tông (1225-1258)
- Trần Thánh Tông (1258-1278)
- Trần Nhân Tông (1279-1293)
- Trần Anh Tông (1293-1314)
- Trần Minh Tông (1314-1329)
- Trần Hiển Tông (1329-1341)
- Trần Dụ Tông (1341-1369)
- Trần Nghệ Tông (1370-1372)
- Trần Duệ Tông (1372-1377)
- Trần Phế Ðế (1377-1388)
- Trần Thuận Tông (1388-1398)
- Trần Thiếu Ðế (1398-1400)
Nhà Hồ
Nhà Hồ tồn tại trong 7 năm (1400-1407) với 2 đời vua:
- Hồ Quý Ly (1400).
- Hồ Hán Thương (1401-1407). (Chi tiết)
Thời Hậu Trần
Nhà Hậu Trần trị vì đất nước ta được 7 năm (1407-1413), trải qua 2 đời vua, bao gồm:
- Giản Định Đế (1407-1409)
- Trùng Quang Ðế(1409 - 1413) (Chi tiết)
Thời kỳ thuộc Minh (1414 - 1417) và Các cuộc khởi nghĩa
Nếu tính từ năm Bính Tuất (1407), từ khi quân Minh bắt được cha con Hồ Quý Ly giải về Kinh Lăng cho đến khi cuộc khởi nghĩa Lam Sơn hoàn toàn thắng lợi năm Mậu Thân (1428), nước ta bị giặc Minh chiếm đóng trong 20 năm. (Chi tiết)
Thời Lê Sơ
Thời Lê Sơ trị vì đất nước ta trong vòng 100 năm (1428-1527), trải qua 10 đời vua, bao gồm
- - Lê Thái Tổ(1428-1433)
- Lê Thái Tông(1434-1442)
- Lê Nhân Tông(1443-1459)
- Lê Thánh Tông(1460-1497)
- Lê Hiến Tông(1497-1504)
- - - Lê Túc Tông(1504)
- Lê Uy Mục(1505-1509)
- Lê Tương Dực(1510-1516)
- Lê Chiêu Tông(1516-1522)
- Lê Cung Hoàng(1522-1527)
Nhà Mạc
Nhà Mạc trị vì đất nước ta được 66 năm (1527-1592), trải qua 5 đời vua, bao gồm:
- Mạc Ðăng Dung (1527-1529)
- Mạc Đăng Doanh (1530-1540)
- Mạc Phúc Hải (1541-1546)
- Mạc Phúc Nguyên (1546-1561)
- Mạc Mậu Hợp (1562-1592)
Thời Hậu Lê
Thời Hậu Lê - thời kỳ phân tranh (1533-1788) tồn tại trong 256 năm với diễn biến như sau:
Nam triều - Bắc triều (1533-1593)
Trịnh - Nguyễn phân tranh
Các đời chúa Trịnh (1545-1787)
Các đời chúa Nguyễn (1600-1802)
Trịnh - Nguyễn phân tranh
Nhà Lê nhờ có họ Trịnh giúp nên dứt được nhà Mạc, tưởng giang sớm thống nhất như cũ, ai ngờ họ Trịnh và họ Nguyễn lại sinh lòng ghen ghét, gây nên mối oán thù, rồi mỗi họ hùng cứ một phương, chia nưóc ta làm hai mảng: họ Nguyễn giữ xứ Nam, họ Trịnh giữ xứ Bắc. Từ đó giang sơn chia rẽ, Nam Bắc phân tranh.
Nam triều - Bắc triều (1533-1593)
Trịnh - Nguyễn phân tranh
Các đời chúa Trịnh (1545-1787)
Các đời chúa Nguyễn (1600-1802)
Các đời chúa Trịnh
Các đời chúa Trịnh tồn tại trong 243 năm (1545-1787), trải qua 12 đời chúa, bao gồm:
Trịnh Kiểm (1545-1570)
Trịnh Tùng (1570-1623)
Trịnh Tráng (1623-1652)
Trịnh Tạc (1653-1682)
Trịnh Căn (1682-1709)
Trịnh Cương (1709-1729)
Trịnh Giang (1729-1740)
Trịnh Doanh (1740-1769)
Trịnh Sâm (1767-1782)
Trịnh Cán
Trịnh Tông (1782-1786)
Trịnh Bồng (từ 9/1786 đến 9/1787)
Nam triều - Bắc triều (1533-1593)
Trịnh - Nguyễn phân tranh
Các đời chúa Trịnh (1545-1787)
Các đời chúa Nguyễn (1600-1802)
Các đời chúa Nguyễn
Các đời chúa Nguyễn tồn tại 203 năm (1600-1802), trải qua 10 đời chúa, bao gồm:
Nguyễn Hoàng (1600-1613)
Nguyễn Phúc Nguyên (1613-1635)
Nguyễn Phúc Lan (1635-1648)
Nguyễn Phúc Tần (1648-1687)
Nguyễn Phúc Trăn (1687-1691)
Nguyễn Phúc Chu (1691-1725)
Nguyễn Phúc Chú (1725-1738)
Nguyễn Phúc Khoát (1738-1765)
Nguyễn Phúc Thuần (1765-1777)
Nguyễn Phúc Ánh (1780-1802)
Nam triều - Bắc triều (1533-1593)
Trịnh - Nguyễn phân tranh
Các đời chúa Trịnh (1545-1787)
Các đời chúa Nguyễn (1600-1802)
Nhà Tây Sơn
Triều Tây Sơn tồn tại được 25 năm (1778-1802), trải qua 3 đời vua, bao gồm:
- Thái đức Hoàng đế (1778-1793)
- Quang Trung Hoàng đế - Nguyễn Huệ (1789-1792)
- Cảnh Thịnh Hoàng đế (1793 - 1802) (Chi tiết)
Nhà Nguyễn
Nhà Nguyễn (1802-1945), trải qua 13 đời vua, bao gồm:
Gia Long Hoàng Ðế (1802-1819)
Minh Mệnh Hoàng Ðế (1820-1840)
Thiệu Trị Hoàng Ðế (1841-1847)
Tự Ðức Hoàng Ðế (1848-1883)
Dục Đức Hoàng Ðế (1883, 3 ngày)
Hiệp Hòa Hoàng Ðế (1883, 4 tháng).
Kiến Phúc Hoàng Ðế (1883-1884)
Hàm Nghi Hoàng Ðế (1884-1885)
Đồng Khánh Hoàng Ðế (1886-1888)
Thành Thái Hoàng Ðế (1889-1907)
Duy Tân Hoàng Ðế (1907-1916)
Khải Định Hoàng Ðế (1916-1925)
Bảo Đại Hoàng Ðế (1926-1945)

Nguyễn Tiến Hùng sưu tầm 19:49 13/10/2005
Sửa lần cuối bởi hungcay vào ngày 22 Tháng 4 2011 với 1 lần sửa trong tổng số.
..đừng chỉ đọc, hãy bình luận hoặc gửi bài mỗi lần vào diễn đàn..!!
Hình ảnh
Hình đại diện của thành viên
hungcay
Super Guide
Super Guide
 
Bài viết: 298
Ngày tham gia: 16 Tháng 4 2011

Re: Khái quát lịch sử Việt Nam

Gửi bàigửi bởi hungcay » 22 Tháng 4 2011

Giai đoạn thuộc Pháp
Năm 1857 chính phủ Pháp thông qua quyết định đánh chiếm Việt Nam. Nhưng do sự đánh trả quyết liệt của những người yêu nước Việt Nam, phải sau 30 năm, thực dân Pháp mới thiết lập được quyền thống trị của họ trên toàn lãnh thổ Việt Nam (1887).
Năm 1887, Liên bang Ðông Dương thành lập, gồm 5 xứ là Bắc Kỳ, Trung Kỳ, Nam Kỳ, Cao Miên và Lào. Ðến đầu thế kỷ 20, các hoạt động kinh tế xã hội của Pháp ở Việt Nam bắt đầu được đẩy mạnh. Người Pháp tập trung đầu tư vốn vào các ngành khai thác mỏ và một số kỹ nghệ. Ðã xuất hiện những đồn điền rộng lớn. Và bên cạnh cây lúa, đã xuất hiện cây chè, cây cà phê, cao su, thầu dầu,... Sản phẩm nông nghiệp và thủ công nghiệp bắt đầu trở thành hàng hoá. Gắn liền với những biến chuyển kinh tế là sự ra đời của giai cấp tư sản Việt Nam và giai cấp công nhân Việt Nam.

Về giáo dục năm 1915, Pháp bãi bỏ chế độ thi cử cũ và quy định ba bậc học ở phổ thông (ấu học, tiểu học, trung học) và năm 1917, chính thức mở trường đào tạo quan chức theo "ngạch Tây".

Còn đối với nhân dân lao động, nhất là nông dân, thực dân Pháp thi hành chính sách cai trị khắt khe, tàn bạo, thông qua hệ thống quan lại và mật thám. Người dân phải đóng nhiều thứ thuế. Chính sách ngu dân của thực dân giam hãm họ trong u tối.
Những người yêu nước Việt Nam vẫn tiếp tục cuộc đấu tranh giải phóng đất nước. Lớp này ngã xuống thì lớp khác lại vùng dậy. Cho đến năm 1930, Nguyễn Ái Quốc, tức Hồ Chí Minh, đã sáng lập Ðảng Cộng sản Việt Nam, sau đổi tên là Ðảng Cộng sản Ðông Dương, và từ đấy những người cộng sản lãnh đạo phong trào giải phóng dân tộc.

Nước Việt Nam (từ năm 1945)
Chiến tranh thế giới lần thứ hai kết thúc, phát xít Nhật đầu hàng, nhân dân Việt Nam đã tiến hành thắng lợi cuộc cách mạng Tháng Tám năm 1945. Ngày 02/9/1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đọc Tuyên ngôn độc lập ở quảng trường Ba Ðình (Hà Nội), khai sinh nước Việt Nam dân chủ cộng hoà.
Ngay sau khi cách mạng Tháng Tám thành công, nhân dân Việt Nam đã phải đương đầu với những âm mưu và hành động xâm lược của nhiều kẻ thù bên ngoài. Năm 1946, thực dân Pháp đã trở lại xâm lược Ðông Dương. Nhân dân Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Ðảng Cộng sản Ðông Dương (tên của Ðảng Cộng Sản Việt Nam thời đó) và Chủ tịch Hồ Chí Minh tiến hành cuộc kháng chiến, bảo vệ nền độc lập của mình. Chiến thắng Ðiện Biên Phủ lịch sử đã kết thúc cuộc kháng chiến trường kỳ, gian khổ lần thứ nhất của nhân dân Việt Nam. Với Hiệp định Genève (1954), độc lập, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam đã được thế giới chính thức thừa nhận.
Sau khi Thực dân Pháp rút khỏi miền Bắc, nước Việt Nam vẫn bị chia cắt làm hai miền. Miền Bắc (từ vĩ tuyến 17 trở ra) là nước Việt Nam dân chủ cộng hoà, bắt đầu công cuộc xây dựng đất nước. ở miền Nam, từ vĩ tuyến 17 trở vào gọi là Việt Nam Cộng hoà, vẫn diễn ra cuộc chiến tranh giữa một bên là nhân dân miền Nam và một bên là chính quyền Sài Gòn và quân đội Mỹ. Nhân dân Việt Nam một lần nữa phải chịu đựng một cuộc chiến tranh ác liệt trong gần 20 năm để giành lại độc lập dân tộc. Sau hiệp định Pari (1973), quân đội Mỹ rút khỏi Việt Nam. Với chiến thắng mùa Xuân 1975 mà đỉnh cao là chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, ngày 30 tháng 4 năm 1975, chính quyền Sài Gòn sụp đổ. Ðất nước Việt Nam hoàn toàn thống nhất, lấy tên là nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, thủ đô là Hà Nội. Dân tộc Việt Nam bắt tay vào khắc phục những hậu quả nặng nề của 30 năm chiến tranh, xây dựng lại đất nước. Ngày nay, dân tộc Việt Nam đang bước vào kỷ nguyên mới xây dựng và phát triển kinh tế, thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng và văn minh.
Nguyễn Tiến Hùng sưu tầm 19:57 13/10/2005
..đừng chỉ đọc, hãy bình luận hoặc gửi bài mỗi lần vào diễn đàn..!!
Hình ảnh
Hình đại diện của thành viên
hungcay
Super Guide
Super Guide
 
Bài viết: 298
Ngày tham gia: 16 Tháng 4 2011


Quay về Lịch sử Việt Nam

Ai đang trực tuyến?

Đang xem chuyên mục này: Không có thành viên nào đang trực tuyến.0 khách.