+ Câu hỏi :
- Tại sao người Nhật thích thơ (Tanka)?
- Haiku được sáng tác như thế nào?
- Kabuki (Ca vũ kỹ) được hình thành khi nào?
- Kịch No được hình thành khi nào?
- Mối quan hệ của No và Kyogen là gì?
- Bunraku được hình thành khi nào?
- Có phải tất cả phụ nữ Nhật Bản đều biết nghệ thuật cắm hoa và trà đạo không?
- Uống trà theo trà đạo khác với uống trà bình thường như thế nào?
- Nghệ thuật cắm hoa (Ikebana) là gì?
- Chế độ Iemoto là gì?
- Khi nào thì người Nhật viết bằng bút lông?
- Bonsai được làm như thế nào?
- Đồ gốm của Nhật có nổi tiếng hay không?
- Sơn mài của Nhật (Sikki) có những ưu điểm gì?
- Kiếm Nhật khác kiếm nước ngoài ở chỗ nào?
- Báu vật sống của quốc gia ở Nhật được định nghĩa như thế nào?
+ Trả lời :
- Tại sao người Nhật thích thơ (Tanka)?
Tanka (đoản ca:短歌) là thể loại thơ độc đáo của Nhật Bản, đã được hoàn thiện vần luật từ đầu thế kỉ VII. Vần luật ban đầu của tanka có thể được xem trong Manyoshu (Vạn diệp tập:万葉集), một tuyển tập thơ được biên soạn vào thế kỉ VIII. Những từ dùng để miêu tả tâm trạng nhà thơ hoặc tả cảnh thì được sắp xếp theo luật 5-7-5-7-7 (kí tự Nhật). Khi mà không có từ miêu tả cảnh như nói trong haiku, tanka cho phép reo vần tự do tuỳ theo tâm trạng của nhà thơ. Đó chính là một trong những lý do chủ yếu mà người Nhật hay sáng tác Tanka và thích nó.
– Haiku được sáng tác như thế nào?
Haiku (Bài cú) là loại thơ độc đáo của Nhật Bản, và là loại thơ ngắn nhất trên thế giới. Người ta cho rằng thể thơ Haiku đã được tạo ra vào thế kỉ XVII và phát triển mạnh vào thời kì Edo, và những nhà thơ nổi tiếng như Basho và Buson cũng đã nổi tiếng do loại thơ này. Thơ Haiku được xắp xếp thành ba hàng 5-7-5 (kí tự Nhật). Có những luật cơ bản như: Trong thơ Haiku bắt buộc phải có “Kigo” (quý ngữ) nghĩa là từ miêu tả mùa.
– Kabuki (Ca vũ kỹ) được hình thành khi nào?
Có lẽ Kabuki được hình thành vào khoảng năm 1603, khi có một phụ nữ tên là Okuni ở đền thờ đạo Izumo trình diễn một điệu nhảy gọi là Nenbutsu odori (điệu múa niệm Phật) Tuy nhiên, vào năm 1629, phụ nữ bị cấm lên sàn diễn, và chỉ đàn ông mới được phép nhảy; điệu nhảy Kabuki đã được hoàn thiện vào thời kì Genroku (Nguyên Lộc 1688-1704). Vào thời kì Minh Trị, bất chợt có cuộc xâm nhập của văn hoá phương Tây, và Kabuki đã thậm chí dự định hợp tác với những ảnh hưởng mới này. Tuy nhiên đến thế kỉ XX, người ta đã quay chiều hướng của Kabuki vào loại nhảy dân tộc, và xu hướng đó tiếp tục cho đến bây giờ. Mọi người vẫn luôn bảo tồn cái truyền thống bảo thủ, như việc truyền tên của sàn diễn lại đời sau những cái tên của các nghệ sĩ Kabuki nổi tiếng dựa theo phả hệ của dòng họ. Ở Tokyo, một rạp hát biểu diễn Kabuki vĩnh viễn được gọi là sân khấu Kabuki-za và biểu diễn quanh năm.
– Kịch No được hình thành khi nào?
Rạp hát Noh dùng để nhảy và biểu diễn ca nhạc được gọi là Utai. Noh được dựa trên một bài hát và điệu nhảy lấy từ sangaku (một hình thức giải trí được giới thiệu khắp châu lục trong thời kì Nara bao gồm xiếc, ảo thuật, nhảy-và-hát. Bài hát và điệu nhảy này được phát triển theo cách độc đáo của Nhật Bản, và đến nửa cuối của thời kì Kamakura (1192-1333), phong cách Noh đã được hoàn thiện. Năm 1374, dưới triều đại Mạc phủ, tướng quân Ashikaga Yoshimitsu, đã có ấn tượng rất sâu sắc với buổi trình diễn Noh, và sau đó Noh đã được phát triển dưới sự cai quản của ông. Kan’ami và con trai của ông – Zeami – phát triển nghệ thuật của loại hình nghệ thuật Noh, và thành lập cơ sở lí thuyết vững chắc của nó. Ngày nay, có 3 trường phái của rạp hát Noh: Kanze, Hosho, Komparu, Kongo và Kita.
– Mối quan hệ của No và Kyogen là gì?
Noh không thể bắt đầu từ một loại truyện tranh được.
Nguồn gốc của kịch Noh (theo Wikipedia)
Sarugaku (Viên-nhạc hay Thân-nhạc), còn được gọi là Sangaku (Tán-nhạc) là một loại hình nghệ thuật phổ biến từ thời kỳ Heian đến thời kỳ Muromachi. Có hai cách giải thích cho từ Sarugaku.
Cách giải thích thứ nhất cho rằng Sarugaku là một cách gọi chệch đi của từ Sangaku. Một cách giải thích khác cho rằng
vì phát triển từ nghệ thuật tấu hài dựa trên việc bắt chước, nên người ta sử dụng chữ Viên (đọc là Saru, nghĩa là con khỉ) để đặt tên cho nghệ thuật này.
Ngoài ra, trong cuốn "bí kíp" của một trong những tổ sư của Noh là Thế-A-Lục (Zeami), chữ Thân (cũng đọc là Saru và có nghĩa là khỉ, thường dùng trong 12 con giáp) được sử dụng để viết chữ Sarugaku. Người ta giải thích rằng nguyên Sarugaku là một loại Thần-nhạc (nhạc để biểu diễn trong các lễ tế), lược bỏ đi bộ thủ của chữ Thần sẽ được chữ Thân.
Sau này, Sarugaku phát triển thành nghệ thuật Noh. Trong cuốn chính sử của Mạc phủ Tokugawa là Đức Xuyên Thực Ký, chữ Viên nhạc được sử dùng chính thức để chỉ Sarugaku.
– Bunraku được hình thành khi nào?
Bunraku (Văn lạc) là một loại múa rối của riêng Nhật Bản, đây là loại nghệ thuật có người điều khiển con rối từ đằng sau. Những con rối được điều khiển phù hợp với nhạc và hát và được gọi là joruri. Một con rối cần sự điều khiển của 3 người. Hình thức văn hoá này được hình thành vào đầu thời Bunroku – Keicho (1592-1614) và đến thời Edo thì phổ biến rộng rãi trên toàn quốc. Vào cuối thế kỷ 17, nhờ sự thao tác các con rối một cách tài tình của Takemono Gidayu, nhiều câu truyện được viết cho Banraku và nó trở thành một nghệ thuật hoàn chỉnh. Bunraku được biểu diễn định kì tại Nhà hát quốc gia Tokyo và Nhà hát Bunram quốc gia ở Osaka.
– Có phải tất cả phụ nữ Nhật Bản đều biết nghệ thuật cắm hoa và trà đạo không?
Câu trả lời là không. Cho đến khi chiến tranh thế giới lần thứ hai kết thúc thì Sadou và Ikebana là điều cần biết tối thiểu đối với những phụ nữ độc thân nếu như người đó muốn lập gia đình. Sau chiến tranh, cùng với sự gia tăng của tỷ lệ phụ nữ tham gia vào các hoạt động xã hội thì số người biết 2 nghệ thuật này giảm dần. Ngày nay chỉ những ai có hứng thú mới giành thời gian để học 2 nghệ thuật này. Hai nghệ thuật này vốn là của con trai. Do cắm hoa cũng là một cách để trang trí trong nhà nên từ thời Edo nhiều người con gái nhà quyền quí cũng học nghệ thuật này. Nghệ thuật pha trà được coi là một phương pháp để tịnh dưỡng tinh thần. Từ thời Minh Trị thì nó trở nên phổ biến đối với những cô dâu sắp lên xe hoa.