Tìm hiểu về Minh Trị Thiên Hoàng Meiji Tenno

Tìm hiểu về Minh Trị Thiên Hoàng Meiji Tenno

Gửi bàigửi bởi admin » 25 Tháng 8 2011

Thiên hoàng Minh Trị (Nhật: 明治天皇 (Minh Trị Thiên hoàng)
Meiji-tennō?) (11 tháng 3 năm 1852 – 30 tháng 7 năm 1912), còn gọi là
Minh Trị Đại Đế, Minh Trị Thánh Đế, Mutsuhito Đại Đế, là vị Thiên hoàng
thứ 122 của Nhật Bản theo Danh sách Thiên hoàng truyền thống, trị vì từ
ngày 3 tháng 2 năm 1867 tới khi qua đời. Ông được coi là vị hoàng đế anh
minh và có công lớn nhất trong lịch sử Nhật Bản, đã canh tân và đưa
nước này trở thành một quốc gia hiện đại. Tên thật (húy) ông là Mutsuhito (Nhật: 睦仁 Mục Nhân?), còn được phiên âm
thành Mutxuhitô hay Mutsuhitô trong tiếng Việt. Giống như các tiên đế,
ông chỉ được nhắc đến bằng thụy hiệu từ khi qua đời, dù thỉnh thoảng ông
được gọi là Thiên hoàng Mutsuhito[2] hoặc đơn giản là Mutsuhito ở ngoài
Nhật Bản. Ngoài trường hợp là người thân trong Hoàng gia, ai nói tên
thật của Thiên hoàng sẽ bị xem là phạm húy. Khi Thiên hoàng qua đời,
người kế vị ông sẽ đặt niên hiệu mới cho mình. Vốn đã cai trị trong thời
kỳ Minh Trị, ông được biết với tên gọi Thiên hoàng Minh Trị (hay Nhật
hoàng Minh Trị).

Thiên Hoàng Minh Trị
Hình ảnh


Minh Trị Thiên hoàng
明治天皇
Meiji-tennō

Hình Minh Trị Thiên hoàng trong sách Tenno Yondai No Shozo (天皇四代の肖像,
Thiên hoàng Tứ đại chi Tiêu tượng), xuất bản bởi NXB Mainichi (Mainichi
Shinbun Sha, 毎日新聞社, Mỗi Nhật Tân văn xã).
Hình ảnh
...những bài viết, những dòng bình luận của bạn sẽ làm diễn đàn ngày một phát triển.
Hình đại diện của thành viên
admin
Quản trị diễn đàn
Quản trị diễn đàn
 
Bài viết: 2278
Ngày tham gia: 17 Tháng 2 2011
Đến từ: Hà Nội

Re: Tìm hiểu về Minh Trị Thiên Hoàng Meiji Tenno

Gửi bàigửi bởi admin » 25 Tháng 8 2011

Thông tin chung

Thiên hoàng thứ 122 của Nhật Bản
Trị vì 3 tháng 2 năm 1867 – 30 tháng 7 năm 1912
Đăng quang: 3 tháng 2 năm 1867
Tiền nhiệm: Hiếu Minh Thiên hoàng
Thủ tướng:
Itō Hirobumi
Kiyotaka Kuroda
Sanetomi Sanjō
Aritomo Yamagata
Masayoshi Matsukata
Ōkuma Shigenobu
Tarō Katsura
Kinmochi Saionji
Kế nhiệm: Đại Chính Thiên hoàng
Vợ: Chiêu Hiến Hoàng thái hậu
Hậu duệ:

Đông cung Thái tử, sau là Đại Chính Thiên hoàng
Công chúa Masako
Công chúa Fusako
Công chúa Nobuko
Công chúa Toshiko
Tên đầy đủ: Mutsuhito (Nhật: 睦仁 Mục Nhân?)
Tước vị: Thiên hoàng (天皇, tennō), Ngự Môn hay Đế (Mikado, 御門 hay 帝 hoặc みかど)
Niên hiệu
Minh Trị: 1868 – 1912
Thụy hiệu: Minh Trị Thiên hoàng
Hoàng tộc: Nhà Yamato
Hoàng gia ca: Kimi ga Yo
Thân phụ: Hiếu Minh Thiên hoàng
Thân mẫu: Nakayama Yoshiko
Sinh: 3 tháng 11 năm 1852 tại Kyōto, Nhật Bản
Mất: 30 tháng 7 năm 1912 tại Đông Kinh, Nhật Bản
Tôn giáo: Thần đạo

Thiên hoàng Minh Trị (Nhật: 明治天皇 (Minh Trị Thiên hoàng)
Meiji-tennō?) (11 tháng 3 năm 1852 – 30 tháng 7 năm 1912), còn gọi là
Minh Trị Đại Đế, Minh Trị Thánh Đế, Mutsuhito Đại Đế, là vị Thiên hoàng
thứ 122 của Nhật Bản theo Danh sách Thiên hoàng truyền thống, trị vì từ
ngày 3 tháng 2 năm 1867 tới khi qua đời. Ông được coi là vị hoàng đế anh
minh và có công lớn nhất trong lịch sử Nhật Bản, đã canh tân và đưa
nước này trở thành một quốc gia hiện đại.

Tên thật (húy) ông là Mutsuhito (Nhật: 睦仁 Mục Nhân?), còn được phiên âm
thành Mutxuhitô hay Mutsuhitô trong tiếng Việt. Giống như các tiên đế,
ông chỉ được nhắc đến bằng thụy hiệu từ khi qua đời, dù thỉnh thoảng ông
được gọi là Thiên hoàng Mutsuhito[2] hoặc đơn giản là Mutsuhito ở ngoài
Nhật Bản. Ngoài trường hợp là người thân trong Hoàng gia, ai nói tên
thật của Thiên hoàng sẽ bị xem là phạm húy. Khi Thiên hoàng qua đời,
người kế vị ông sẽ đặt niên hiệu mới cho mình. Vốn đã cai trị trong thời
kỳ Minh Trị, ông được biết với tên gọi Thiên hoàng Minh Trị (hay Nhật
hoàng Minh Trị).

Vào thời điểm ông ra đời (1852), Nhật Bản là một nước nông nghiệp với
quan hệ sản xuất phong kiến lạc hậu, thực hiện chính sách Tỏa Quốc giới
hạn giao thương với nước ngoài, lại nằm dưới quyền Mạc phủ Tokugawa (Đức
Xuyên Mạc Phủ) và các lãnh chúa đại danh (daimyō) cát cứ ở 250 phiên
(han). Ông lên ngôi năm 1867 khi mới 14 tuổi rưỡi và chiến thắng của phe
bảo hoàng chiến tranh Mậu Thìn đã giúp ông khôi phục Đế quyền. Dưới
triều đại ông, cuộc cải cách Minh Trị Duy Tân được thực hiện. Cuộc Minh
Trị Duy Tân đã tạo điều kiện cho nước Nhật phát triển theo đường lối chủ
nghĩa tư bản và chủ nghĩa đế quốc, rồi còn bành trướng ra nước ngoài.
Với chiến thắng trước nhà Thanh trong chiến tranh Giáp Ngọ, và đế quốc
Nga trong chiến tranh Nga-Nhật, Nhật Bản đứng hàng ngũ các cường quốc
thế giới.

Mặc dù không phải tất cả những sự kiện trên đều do một mình Thiên hoàng
Minh Trị làm ra, nhưng tất cả được thực hiện dưới "Thánh chỉ của Thiên
hoàng" và dĩ nhiên ông có nhiều đóng góp, dính líu đến trong đó. Vì vậy
Thiên hoàng Minh Trị được nhiều người chú ý nhất trong số các Thiên
hoàng Nhật Bản. Những nhà lãnh đạo trong chính quyền Minh Trị cũng cố
gắng đưa Thiên hoàng trở thành biểu tượng của sự thống nhất và lòng
trung thành của dân tộc Nhật Bản, dựa trên niềm tin Hoàng gia thiêng
liêng, là con cháu của Thiên Chiếu Đại Thần Amaterasu. Có người tôn vinh
ông, nhưng cũng có người chỉ trích ông một cách thẳng tay.

Thân thế và tuổi nhỏ

Mutsuhito là con trai thứ của Thiên hoàng Hiếu Minh. Mẹ ông là thị nữ
Nakayama Yoshiko (中山慶子, Trung Sơn Khánh Tử, 1834 – 1907),[6] con gái của
lãnh chúa Nakayama Tadayasu thuộc gia tộc Fujiwara, đã có lúc làm Tả
đại thần. Ông ra đời 8 tháng trước khi Phó đề đốc Matthew Calbraith Perry
và đội “Chiến Hạm Đen” của Hoa Kỳ đến vịnh Giang Hộ và 2 năm trước
những hiệp ước mà Mạc phủ Tokugawa ký với Perry, gồm những điều khoản
không có lợi cho Nhật Bản.

Vị hoàng tử trẻ được đặt tên là "Hữu cung" (さちのみや, Sachi-no-miya). Phần
lớn thời thơ ấu của ông trôi qua tại gia đình Nakayama ở kinh đô Kyōto,
theo phong tục ủy thác nuôi dưỡng trẻ em Hoàng gia cho các thành viên ưu
tú của cung đình. Mutsuhito bắt đầu học khi chín tuổi. Ông là một học
sinh thờ ơ, và, về cuối đời, ông đã viết những bài thơ tỏ lòng ân hận
rằng bản thân ông đã không chuyên tâm hơn trong môn tập viết. Ngày 11
tháng 7 năm 1860, ông chính thức được nhận nuôi bởi Asako Nyōgō (sau này
là Anh Chiếu Hoàng thái hậu), nữ ngự (nyogo) của Thiên hoàng Hiếu Minh.
Ông được đổi tên là Mục Nhân (Mutsuhito – hàm nghĩa đối xử với mọi
người hòa mục, nhân từ), được phong chức Thân vương (Shinnō), lại được
phong chức Hoàng thái tử (Kōtaishi) cùng ngày.

Theo 10 đại hoàng đế thế giới, cái tên Mutsuhito đúng là hợp với vẻ
ngoài của hoàng tử lúc đó. Ngay từ lúc nhỏ, ông chỉ quanh quẩn với các
cung nữ và sống cách biệt với thế giới bên ngoài, lại còn được cha mẹ
hết sức cưng chiều, yêu quí, nên Mutsuhito trở thành một cậu bé nhút
nhát, yếu đuối và hay sợ sệt. Tháng 8 năm 1864, binh sĩ của Mạc phủ và
phiên Trường Châu đánh nhau với quân của phiên Long Ma tại cửa hoàng
cung, và tiếng súng nổ trong trận đánh đã khiến Mutsuhito té xỉu vì quá
sợ, và sau khi tỉnh dậy cậu bé vẫn còn chui rúc vào lòng các cung nữ để
trốn, tỏ ra không có một tí can đảm nào cả. Nhiều triều thần sợ rằng,
theo đà tiến triển của cuộc xung đột giữa chính quyền Mạc phủ và các lực
lượng chống đối thì hai bên lại có thể đánh nhau ở kinh đô Kyōto, và
lúc này Mutsuhito sẽ chết vì quá sợ.

Phần lớn tuổi trẻ của Thiên hoàng Minh Trị chỉ được biết qua các ghi
nhận về sau. Theo Donald Keene, tác giả cuốn Emperor of Japan: Meiji and
His World, 1852–1912, các ghi nhận thường có sự mâu thuẫn. Một người
đương thời mô tả tiểu hoàng tử là một người to khỏe, hơi giống một tên
du côn và thể hiện tài năng xuất chúng trong môn sumo. Theo những ghi
nhận khác, vị hoàng tử là một người mảnh khảnh và hay bị ốm. Một số
người viết tiểu sử Minh Trị nói ông đã ngất xỉu khi nghe tiếng súng lần
đầu tiên, nhưng điều này bị bác bỏ bởi một số người khác.

Tuy nhiên, do thân thế là một hoàng tử, Mutsuhito cũng bị tiêm nhiễm
phải nhiều thói tật không lành mạnh của một cậu bé quý tộc, ví dụ như
cậu thiếu sự đồng cảm với những người yếu thế. Một lần nọ, thấy một cụ
già bị sẩy chân té xuống nước, Mutsuhito không những không kêu người đến
cứu mà còn phá lên cười khoái chí. Dạo khác, Mutsuhito mang kéo đi cắt
phá tan hoang những cành dây leo trang trí trong hành lang cung vua, rồi
vu khống cho người khác. Và việc cầm khẩu súng bắn nước đi chọc phá các
cung nữ cũng là một trò vui của tiểu hoàng tử.
Hình ảnh
...những bài viết, những dòng bình luận của bạn sẽ làm diễn đàn ngày một phát triển.
Hình đại diện của thành viên
admin
Quản trị diễn đàn
Quản trị diễn đàn
 
Bài viết: 2278
Ngày tham gia: 17 Tháng 2 2011
Đến từ: Hà Nội

Re: Tìm hiểu về Minh Trị Thiên Hoàng Meiji Tenno

Gửi bàigửi bởi admin » 25 Tháng 8 2011

Quá trình lên ngôi đầy sóng gió

Bối cảnh lịch sử

Trong suốt thời niên thiếu của hoàng tử Mutsuhito, nước Nhật đang trong
buổi giao thời giữa cái cũ và cái mới. Mặc dù suốt hai thế kỷ trước năm
1854, Nhật Bản giới hạn nghiêm ngặt việc giao thương với người nước
ngoài, điều này không có nghĩa là ngoại thương hoàn toàn chấm dứt. Người
Nhật vẫn buôn bán với nhà Triều Tiên thông qua đảo Đối Mã, Mãn Thanh
qua Nam Tây Chư Đảo và Hà Lan qua thương điếm Dejima (Xích Đảo), một hòn
đảo nhân tạo nằm ngoài khơi cảng Nagasaki. Nhờ sự tiếp xúc với người Hà
Lan, các nghiên cứu khoa học của phương Tây vẫn tiếp tục được tiếp thu
trong thời kỳ này với cái tên "Lan học" (rangaku), cho phép người Nhật
học hỏi và làm theo phần lớn các bước của Cách mạng khoa học và Cách
mạng công nghiệp. Một số người thuộc tầng lớp võ sĩ, nhận được sự giáo
dục tốt thì bắt đầu tìm tòi con đường cải cách. Mối quan hệ buôn bán hạn
chế với Hà Lan đã phần nào giúp chủ nghĩa tư bản phương Tây thâm nhập
vào xã hội phong kiến Nhật Bản và đẩy nhanh sự sụp đổ của nó, vốn đã rạn
nứt nghiêm trọng trong suốt một thời gian dài trước đó.

Năm 1854, Phó đề đốc Hải quân Hoa Kỳ là Matthew Calbraith Perry mang một
hạm đội 9 chiếc tàu chiến tới buộc Nhật Bản mở cửa, chấm dứt thời kỳ bế
quan tỏa cảng. Nhưng người Mỹ đã bắt chính quyền Mạc phủ ký một hiệp
định buôn bán bất bình đẳng. Tiếp đó, các đế quốc như Hà Lan, Anh, Pháp,
Nga,… cũng đua nhau tới và ép Mạc phủ ký các hiệp ước tương tự. Việc
mất đi một loạt chủ quyền quốc gia khiến Nhật Bản đứng trước cuộc khủng
hoảng dân tộc và này gây bất mãn trong quần chúng nhân dân. Mạc phủ sớm
đối mặt với sự thù địch ở trong nước, được cụ thể hóa thành phong trào
bài ngoại “Tôn hoàng, nhương di”, tức nâng cao uy tín Thiên hoàng, đánh
đuổi người ngoại quốc ra khỏi xứ sở. Các Phiên vùng Tây Nam Nhật Bản –
vốn từ lâu bất mãn với Mạc phủ – đã nhân cơ hội này đi rêu rao khắp nơi
rằng chính quyền Mạc phủ câu kết với người nước ngoài, bán đứng chủ
quyền quốc gia; mưu dùng chiêu bài “Tôn hoàng, nhương di” để lật đổ chế
độ Mạc phủ.

Hình ảnh
Kanrin Maru, tàu chiến hơi nước chạy chân vịt đầu tiên của Nhật, năm 1855.


Mạc phủ hăng hái theo đuổi quá trình hiện đại hóa, nhưng đối mặt với sự
bất mãn ngày càng tăng ở trong nước chống lại mối nguy với chủ quyền
quốc gia vì các mối liên hệ với phương Tây.
Thiên hoàng Hiếu Minh ủng hộ xu thế này, và – phá vỡ truyền thống hàng
thế kỷ của Hoàng gia – bắt đầu giữ vai trò chủ động trong công việc
triều chính: khi cơ hội đến, Thiên hoàng phản đối lại các hiệp ước và cố
can dự vào việc nối ngôi Tướng quân. Đỉnh cao nỗ lực của Thiên hoàng
Hiếu Minh là vào tháng 3 năm 1863 với “Nhương di sắc mệnh”. Mặc dù Mạc
phủ không có ý thi hành chiếu chỉ, điều này sau này lại hại chính Mạc
phủ và người nước ngoài ở Nhật: sự kiện nổi tiếng nhất là việc thương
nhân Charles Lennox Richardson bị sát hại, và cái chết của Richardson đã
khiến Mạc phủ phải trả tiền bồi thường lên đến 10 vạn bảng Anh. Những
cuộc tấn công khác bao gồm việc bắn phá tàu ngoại quốc tại Shimonoseki.

Trong năm 1864, những hành động này bị các thế lực ngoại quốc đáp trả dữ
dội, ví dụ như vụ bắn phá Kagoshima của quân Anh và bắn phá Shimonoseki
của liên quân các nước. Cùng lúc, quân đội Chōshū, cùng với những lãng
nhân bài ngoại, tiến hành cuộc nổi loạn Hamaguri cố chiếm kinh đô Kyōto,
nhưng Tướng quân tương lai là Tokugawa Keiki dẫn đầu đội quân chinh
phạt và đánh bại họ. Vào lúc này, sự kháng cự trong giới lãnh đạo phiên
Chōshū cũng như triều đình giảm xuống, nhưng vài năm sau, gia tộc
Tokugawa không thể kiểm soát được toàn bộ đất nước nữa khi mà phần lớn
các đại danh (daimyō) bất tuân các mệnh lệnh và yêu cầu từ Giang Hộ.

Nhận thức về tình hình chính trị náo loạn của hoàng tử Mutsuhito được
Keene xem là không chắc chắn. Trong thời gian này, cậu học thơ tanka,
đầu tiên học với phụ hoàng Hiếu Minh, sau học với các nhà thơ của cung
đình.

Lên ngôi và lật đổ chế độ Mạc phủ

Sau cuộc đảo chính nội bộ và cuộc nổi loạn cách tân của phiên Chōshū bị
Mạc phủ cử quân viễn chinh dẹp tan, phiên Chōshū bí mật liên minh với
phiên Satsuma, và tìm cách liên minh với phiên Tosa. Tuy vậy, cuối năm
1866, đầu tiên là Tướng quân Tokugawa Iemochi (Đức Xuyên Gia Mậu) và sau
đó đến ngày 30 tháng 1 năm 1867 Thiên hoàng Hiếu Minh qua đời. Tokugawa
Keiki (Đức Xuyên Khánh Hỉ) lên kế vị chức Chinh di Đại Tướng quân
(Shōgun). Trước đây vốn là người thuộc phái cải cách, Keiki đã thực hiện
một nỗ lực cuối cùng nhằm hiện đại hóa chính quyền Mạc phủ và biến Nhật
Bản thành một quốc gia theo cơ cấu Tây phương. Còn Mutsuhito – lúc này
chỉ là một cậu bé 14 tuổi rưỡi – được mọi người tôn làm Thiên hoàng,
chính thức lên nối ngôi ngày 3 tháng 2 năm 1867, trong một nghi lễ ngắn ở
kinh đô Kyōto. Những sự kiện này tạo ra "một xu thế không thể tránh
khỏi"].
Đứng trước tin này, lực lượng chống Mạc phủ ngay lập tức đề ra kế hoạch
nắm lấy miếng "Ngọc" – tức khống chế Thiên hoàng rồi sau đó sẽ "ôm lấy
Ngọc" – tức lợi dụng danh nghĩa Thiên hoàng để tiêu diệt chính quyền Mạc
phủ. Lúc này, Thiên hoàng Mutsuhito chỉ là một cậu bé, suốt ngày cứ
chơi đùa với các cung nữ một cách vô ý thức. Cậu hoàn toàn không có năng
lực và kinh nghiệm chấp chính, chỉ làm một vị hoàng đế bù nhìn, đóng
dấu và ký tên vào những văn kiện đã được soạn thảo sẵn. Thiên hoàng cũng
tiếp tục học tập, nhưng không học về những vấn đề chính trị.

Đầu tiên, Iwakura Tomomi (Nham Thương Cụ Thị) – một người hầu cũ của
Thiên hoàng Hiếu Minh – trước tiên lôi kéo số công khanh trong triều
đình, thuyết phục họ đứng về phía chống Mạc phủ, cùng nhau thao túng
Thiên hoàng. Họ khuyên Thiên hoàng ban lệnh ân xá cho tất cả những thành
viên chống Mạc phủ đang bị giam trong tù. Sau đó, vào ngày 8 tháng 11
năm 1867, họ thuyết phục Thiên hoàng xuống mật chiếu chinh phạt lực
lượng Mạc phủ do Tokugawa Keiki đứng đầu. Đến hôm sau (9 tháng 11), mật
chỉ của Thiên hoàng đã được truyền xuống hai phiên Satsuma và Chōshū. Tờ
mật chỉ có đoạn:

“Không thảo phạt được tên giặc này thì đối với trên làm sao đáp tạ
được thần linh của tiên đế, đối với dưới làm sao trả được thâm thù của
muôn dân ?”

Hình ảnh
Chinh di Đại Tướng quân Tokugawa Keiki, năm 1867.

Trước tình hình đó, theo đề xuất của đại danh phiên Tosa, Keiki tuyên bố
"trả lại đại quyền" cho Thiên hoàng và từ bỏ chức vụ "Chinh di Đại
tướng quân", đồng ý trở thành "công cụ thực thi" mệnh lệnh của Hoàng
gia. Mạc phủ Tokugawa chấm dứt. Tuy nhiên thông qua việc khống chế hội
nghị của các phiên, Keiki hy vọng mình vẫn có thể nắm thực quyền như
trước đây. Tất nhiên phái chống Mạc phủ không dễ gì mắc bẫy của Keiki,
họ tiếp tục dùng danh nghĩa của Thiên hoàng để điều động quân đội từ các
địa phương về. Sáng sớm ngày 3 tháng 1 năm 1868, họ lại "nhờ" Thiên
hoàng ra lệnh giải tán hết các đội cảnh vệ của Mạc phủ đóng trong Hoàng
cung, thay vào đó là lực lượng của phái chống Mạc phủ. Tiếp theo, Thiên
hoàng lại ban bố lệnh phục hồi chính quyền cổ của Thiên hoàng, xóa bỏ
chế độ Mạc phủ, đặt ra ba quan chức Tổng Tài, Nghị Định, Tham dữ. Cho
đến lúc này Thiên hoàng Mutsuhito đã hoàn toàn nằm trong tay phái cải
cách, nhưng họ vẫn còn lo sợ thế lực của gia tộc Tokugawa. Thế là phái
chống Mạc phủ lại thuyết phục Thiên hoàng ban sắc lệnh buộc Keiki "từ
quan nộp đất", tức tước đoạt binh quyền và lãnh địa của Keiki.

Tokugawa Keiki phản ứng ngay. Keiki phát động một chiến dịch quân sự với
mục đích chiếm lấy triều đình ở Kyōto, tuyên bố sẽ thanh trừ bọn "phản
tặc" chung quan Thiên hoàng. Đáp lại, Thiên hoàng lại ban bố sắc lệnh sẽ
đích thân cầm quân chinh phạt "tên giặc" Keiki đang mưu cướp đoạt quyền
lực quốc gia. Đôi bên đã đánh nhau tại khu vực Điểu Vũ, Phục Kiến gần
kinh đô Kyōto. Tình hình quân sự nhanh chóng chuyển biến theo hướng có
lợi cho phe bảo hoàng, tuy nhỏ hơn nhưng được hiện đại hóa mạnh mẽ hơn.
Đồng thời, đông đảo dân nghèo và nông dân cũng nổi dậy chống lại Mạc
phủ. Cuối cùng, Keiki buộc phải đầu hàng tại đại bản doanh Giang Hộ
(Edo) và đến ngày 3 tháng 5 năm 1868, Keiki rời chùa Thượng Dã Khoan
Vĩnh Tự đến Mito (Thủy Hộ), nơi triều đình lưu đày Keiki. Dư đảng của
gia tộc Tokugawa rút lui về phía bắc Honshū rồi sau đó là Hokkaidō, nơi
họ thành lập nước Cộng hòa Hà Di (Ezo). Thất bại trong trận Hakodate
khiến họ mất đi căn cứ địa cuối cùng và phe bảo hoàng chính thức nắm
quyền lực tuyệt đối trên toàn nước Nhật, hoàn thành giai đoạn quân sự
trong cuộc Minh Trị Duy Tân. Ngày 18 tháng 5 năm 1869, Tổng thống Hà Di
là Enomoto Takeaki đầu hàng và chấp nhận quyền thống trị của Thiên hoàng
Minh Trị. Khoảng 12 vạn binh sĩ được huy động trong cuộc chiến, và có
khoảng 3.500 người chết.
Hình ảnh
...những bài viết, những dòng bình luận của bạn sẽ làm diễn đàn ngày một phát triển.
Hình đại diện của thành viên
admin
Quản trị diễn đàn
Quản trị diễn đàn
 
Bài viết: 2278
Ngày tham gia: 17 Tháng 2 2011
Đến từ: Hà Nội

Re: Tìm hiểu về Minh Trị Thiên Hoàng Meiji Tenno

Gửi bàigửi bởi admin » 25 Tháng 8 2011

Dời đô và đặt niên hiệu mới



Thiên hoàng Minh Trị mới 16 tuổi, chuyển từ Kyōto về Đông Kinh, vào cuối năm 1868.
Sau khi hoàn thành việc xóa bỏ chế độ Mạc phủ, ngày 3 tháng 9 năm 1868
Thiên hoàng Mutsuhito xuống chiếu đổi tên thành phố Giang Hộ – đại bản
doanh cũ của chính quyền Mạc phủ – thành Đông Kinh (Tōkyō), đồng thời
phái người trang trí và xây dựng lại ngôi thành của Mạc phủ thành Hoàng
cung mới. Ngày 12 tháng 10 năm 1868, Thiên hoàng chính thức làm lễ đăng
quang tại Tử Thần điện ở cố đô Kyotō. Theo đề nghị của các đại thần, ông
đặt niên hiệu là Minh Trị, dựa theo câu "Thánh nhân nam diện thính
thiên hạ, hướng minh nhi trị" trong chương Thuyết Quái của Kinh Dịch.
Đây cũng là thụy hiệu của Thiên hoàng. Điều này đã mở đầu một truyền
thống mới: Thiên hoàng chỉ đặt duy nhất một niên hiệu, sau khi ông qua
đời nó cũng trở thành thụy hiệu của ông.

Sau lễ đăng quang của mình, Thiên hoàng Minh Trị ra chiếu chỉ Ngũ cá
điều ngự thệ văn, ủng hộ hội họp thảo luận, hứa tăng cơ hội cho dân
thường, hủy bỏ các hủ tục của thời kỳ trước, và tìm kiếm tri thức trên
toàn cầu để “củng cố nền móng Đế quyền”

Ngày 4 tháng 11 năm 1868, triều đình Thiên hoàng rời Kyotō về đóng về
đóng đô tại Đông Kinh. Đông Kinh là nơi có những điều kiện thuận lợi về
kinh tế, địa lý và chính trị, giúp Thiên hoàng dễ trị vì hơn. Năm 1873,
do lâu đài Giang Hộ bị cháy, nên ông phải chuyển sang Nghênh Tân quán.
Năm 1874, các khí đốt được ông cho phép nhập và sử dụng để thắp sáng thủ
đô Đông Kinh. Đây là lần đầu tiên khí đốt được sử dụng ở Nhật Bản. Ngày
11 tháng 1 năm 1869, ông phong Masako (về sau đổi tên thành Haruko) (9
tháng 5 năm 1849–19 tháng 4 năm 1914), con gái thứ ba của Tả đại thần
Ichijō Tadaka (Nhất Điều Trung Hương) làm Hoàng hậu (tức Chiêu Hiến
Hoàng hậu).[28] Masako là hoàng phi đầu tiên được phong chức Hoàng hậu
(kōgō), trong vòng vài năm.

Những năm đầu làm vua (1868 – 1878)

Hình ảnh
Thiên hoàng Minh Trị trẻ tuổi trong bộ Sokuda, ảnh chụp bởi Uchida Kuichi năm 1872.


Trải qua hàng loạt sự biến trên, cuối cùng thì địa vị chí tôn của Thiên
hoàng Minh Trị đã được xác lập. Hoàng gia vốn suy yếu suốt nhiều thế kỷ
nay đã phục hồi lại. Nhưng lúc ban đầu, Thiên hoàng Minh Trị không trực
tiếp điều hành triều chính. Căn cứ theo Chính Thể thư ban hành năm 1868,
quyền lực nằm trong tay một cơ quan tên là Thái Chính quan (bao gồm
Nghị Chính quan, Hành Chính quan, Quân Vụ quan, Hình Pháp quan, Hội Kế
quan). Trong khoảng thời gian này, các triều thần thuộc phái chống Mạc
phủ trước đây là những người nắm thực quyền, họ dùng danh nghĩa của
Thiên hoàng để thực thi các cải cách tư bản chủ nghĩa như: bỏ Phiên lập
Huyện, cải cách thuế đất, trả lại bản tịch, xóa bỏ hạn chế đối với nông,
công, thương nghiệp,… Quyền lực chính trị và quân sự của các phiên hoàn
toàn bị bãi bỏ, và các phiên sớm được đổi thành các tỉnh, với thống đốc
được Thiên hoàng bổ nhiệm. Triều đình cũng cho người sang các nước
phương Tây, học về hệ thống chính trị, quân sự và kinh tế ở những nơi
này.

Hình ảnh
Thiên hoàng Minh Trị trẻ tuổi trong bộ quân phục. Cũng là ảnh chụp bởi Uchida Kuichi năm 1873.

Đồng thời các quan viên cũng thực hiện nhiều thay đổi nơi hậu cung và
thay đổi cả con người của Thiên hoàng Minh Trị. Đầu tiên, họ cử Motoda
Eifu (Nguyên Điền Vĩnh Phù), một người tinh thông Tống Nho làm Thị giảng
(thầy dạy học của vua) mới cho Thiên hoàng. Eifu đã dạy Thiên hoàng về
Quốc học, Nho học, Thi ca và cũng nhồi nhét tư tưởng lấy đại nghĩa danh
phận làm trung tâm. Sau đó Yoshī Tomo (Cát Tỉnh Hữu Thực), bạn thân của
Okubo Toshimichi, được bổ nhiện làm Cung nội Đại thừa, cai quản nội
cung. Tomo đã tái bổ nhiệm một loạt các Thị tùng trưởng và thị tùng mới
cho Thiên hoàng. Tomo cũng giải tán toàn bộ số Nữ quan – tức các thị nữ
trong cung – và tiến hành tuyển lựa một số Nữ quan mới với số lượng chỉ
bằng 1/3 trước kia và với thực quyền bị hạn chế gắt gao để ngăn không
cho họ lạm quyền như trước. Đồng thời, Tomo mời một số cựu võ sĩ của Mạc
phủ Tokugawa như Sơn Cương Thiết Thái Lang, Tân Điền Thôn Bát,… vào
cung dạy võ thuật, kiếm thuật, cưỡi ngựa,… cho vị Thiên hoàng vốn yếu
rất yếu mềm, qua đó cũng gieo tinh thần tôn sùng võ công, ham thích
chiến đấu vào ông. Tomo cũng mời một số nhân sĩ có tư tưởng đổi mới để
giảng dạy cho Thiên hoàng về phương pháp trị nước và xử thế của giai cấp
tư sản cùng nhiều tri thức mới khác. Như Nishimura Shigeki (Tây Thôn
Mậu Thọ) dạy cho ông về chính trị và luật pháp của nước Pháp; Hukuhane
Mishizu (Phúc Vũ Mỹ Tịnh) dạy ông về sự lập chí của các nước phương Tây;
còn Katō Hiroyuki (Gia Đằng Hoàng Chi) – về sau trở thành một cận thần
của Thiên hoàng – dạy ông về luật pháp nước Đức. Thiên hoàng cũng học
tiếng Đức trong thời gian này.

Sự cải cách trong nội cung đã thay đổi con người Thiên hoàng Minh Trị
rất nhiều. Từ một cậu thiếu niên yếu đuối, nhu nhược, suốt ngày chui rúc
trong hậu cung để chơi đùa với các cung nữ, ông đã trở thành một con
người mạnh khỏe, cường tráng, ham học hỏi, yêu thích võ nghệ, và đặc
biệt trở nên rất ghét việc vào hậu cung. Ông đặc biệt rất hâm mộ
Napoléon Bonaparte, ông từng hỏi Shigeki rất kỹ lưỡng về thân thế, tính
tình, sự nghiệp xưng bá của Napoléon và không ngớt lời khen ngợi việc
Napoléon đã từng lập nên một Đế quốc Pháp hùng mạnh. Thậm chí vào năm
1871, ông đã dặn dò phái đoàn khảo sát châu Âu của Imakura là phải sưu
tập thật nhiều sách vở nói về vị Hoàng đế Pháp này. Nhân vật Napoléon
Bonaparte đã để lại nhiều ảnh hưởng cho Thiên hoàng Minh Trị trong công
việc trị quốc sau này.

Những sự chuyển biến về tính cách của Thiên hoàng Minh Trị đã đặt một
nền tảng vững chắc cho quá trình đích thân chấp chính của ông sau này.
Hình ảnh
...những bài viết, những dòng bình luận của bạn sẽ làm diễn đàn ngày một phát triển.
Hình đại diện của thành viên
admin
Quản trị diễn đàn
Quản trị diễn đàn
 
Bài viết: 2278
Ngày tham gia: 17 Tháng 2 2011
Đến từ: Hà Nội

Re: Tìm hiểu về Minh Trị Thiên Hoàng Meiji Tenno

Gửi bàigửi bởi admin » 25 Tháng 8 2011

Quá trình đích thân chấp chính (1878 – 1912)

Phong trào Thiên hoàng chấp chính

Đến những năm 1877 – 1878, chính trường Nhật Bản lúc đó có nhiều biến
động lớn. Nhóm Duy Tân tam kiệt, tức ba nhân vật lừng lẫy nhất trong
cuộc lật đổ chế độ Mạc phủ lần lượt qua đời. Những người thay thế họ,
tức Itō Hirobumi (Y Đằng Bác Văn) và Ōkuma Shigenobu (Đại Ôi Trọng Tín)
thì lại có xích mích với nhau. Các công thần của phong trào Duy Tân thì
cứ ôm hết đại quyền quốc gia nên thường bị phê phán sau lưng. Thêm vào
đó, phong trào Tự do Dân quyền đang phát triển mạnh, nó liên kết với
phong trào chống cải cách ruộng đất của địa chủ và đe dọa đến triều
đình. Lúc này, triều đình cần có một người cầm lái vững mạnh để ổn định
lại tình hình đất nước, và họ nghĩ đến Thiên hoàng Minh Trị.

Tháng 5 năm 1878, những thầy dạy học của Thiên hoàng đã phát động phong
trào "Thiên hoàng chấp chính", đòi ông đích thân đứng ra xử lý đại sự
quốc gia. Họ kể với ông về cuộc Kiến Vũ tân chính (1333 – 1336) của
Thiên hoàng Hậu Đề Hồ, và nhấn mạnh rằng, sở dĩ Hậu Đề Hồ lại tiếp tục
để mất quyền bính vào tay Mạc phủ Ashikaga vì Thiên hoàng Hậu Đề Hồ quá
tin những thủ hạ chung quanh, không trực tiếp xử lý triều chính. Họ cố
khuyên Minh Trị không nên đi theo vết xe đổ của Thiên hoàng Hậu Đề Hồ
năm xưa. Lúc này, sau nhiều năm học hỏi việc pháp trị và văn hóa Đông
Tây, ông cũng bắt đầu có những chủ trương, chính kiến độc lập đối với
việc chính sự; và dĩ nhiên ông cũng mong muốn tự mình đứng ra nắm lấy
đại quyền. Đồng thời, người đứng đầu Nội các lúc đó là Nội Vụ khanh Itō
Hirobumi cũng cảm thấy một mình khó đối phó với phong trào Tự do Dân
quyền cũng như phong trào Thiên hoàng chấp chính, thế là Hirobumi quyết
định lựa chọn ủng hộ việc Thiên hoàng Minh Trị đích thân nắm lấy quyền
bính, mưu dùng uy tín của Thiên hoàng để đối phó với nhóm Tự do Dân
quyền.

Có điều, trong khoảng giai đoạn đầu chấp chính, Thiên hoàng Minh Trị gần
như không có ý kiến gì trước các cuộc bàn thảo của triều thần, và ông
đều phê chuẩn tất cả các nghị quyết của Nội các. Thiên hoàng cũng dùng
uy tín của mình để giúp đỡ Nội các trước những khó khăn, thách thức,
trong đó có một việc quan trọng bậc nhất là bóp chết phong trào Tự do
Dân quyền.

Đàn áp phong trào Tự do Dân quyền

Tháng 3 năm 1881, một nhóm cựu du học sinh người Nhật ở Pháp bao gồm Tây
Viên Tự Công Vọng, Tùng Điền Chính Nghĩa,… sau khi về nước đã đứng ra
thành lập tờ báo Đông Dương Tự do Tân văn, chủ trương thành lập nền dân
chủ triệt để, truyền bá tư tưởng tự do. Trước đó, vào năm 1880, triều
đình được sự ủng hộ của Thiên hoàng đã thông qua "Điều lệ hội họp" và
"Điều lệ báo chí" hạn chế gắt gao quyền tự do ngôn luận, tự do hội họp,
cấm phát hành các văn kiện bàn bạc về chính trị,… nhưng triều đình không
áp dụng ngay với trường hợp của Tây Viên Tự Công Vọng, vì Tây Viên Tự
Công Vọng là anh ruột của quan Thị tùng trưởng của Thiên hoàng và có ảnh
hưởng chính trị rất lớn. Thay vào đó, triều đình Thiên hoàng cố gắng
dùng biện pháp khuyên nhủ, uy hiếp nhằm thuyết phục Tây Viên Tự Công
Vọng rút lui khỏi tờ báo nhưng đã không thành công. Cuối cùng, Thiên
Hoàng buộc phải dùng đến biện pháp cứng rắn, ra sắc lệnh buộc Tây Viên
Tự Công Vọng rút lui khỏi tờ báo và sau đó ra sắc lệnh đóng cửa luôn tờ
báo – trước sau ra được 34 số. Để xoa dịu phong trào đấu tranh của quân
chúng, tháng 10 năm 1881 Thiên hoàng Minh Trị đã ra một chiếu thư tuyên
bố sẽ triệu tập quốc hội vào năm 1890, nhưng quyền hạn của quốc hội sẽ
do Thiên hoàng quyết định. Đồng thời ông cũng không quên đe dọa:

“Trẫm đã nói rõ kế hoạch như trên, nếu ai vẫn tỏ ra nôn nóng, vẫn
sách động gây sự, làm nguy hại đến an ninh của quốc gia, thì sẽ bị dựa
theo quốc pháp mà trừng trị. ”

Minh Trị Thiên hoàng,
Do bị triều đình Thiên hoàng đàn áp và phân hóa, phong trào Tự do Dân
quyền đã nhanh chóng suy yếu. Sau khi Thiên hoàng Minh Trị ngồi vững
trên ngai vàng thống trị, ông đã bắt đầu tăng cường địa vị của mình, nắm
gọn toàn bộ thực quyền. Chế độ Thiên hoàng cận đại dần đi vào hoàn
thiện.

Tăng cường thế lực, gia sản của Hoàng gia

Tháng 2 năm 1882, Iwakura Tomomi – vốn là một nhân vật chống lại nhóm Tự
do Dân quyền – đề xuất rằng trước khi soạn thảo Hiến pháp thì cần phải
mở rộng tài sản của Hoàng gia. Việc này nhằm đề phòng trường hợp dự toán
ngân sách của triều đình bị Quốc hội phủ quyết thì Thiên hoàng có thể
sử dụng số tài sản khổng lồ của mình để trang trải kinh phí, trả lương
cho quan lại, đảm bảo quân quyền sẽ áp chế dân quyền. Kiến nghị này được
Thiên hoàng Minh Trị đồng ý ngay.

Để nhanh chóng tăng cường tài sản cho Hoàng gia, Thiên hoàng đã học theo
cách vơ vét tài chính của Mạc phủ trước kia. Trước hết, ông ra tay thu
gom một số lớn ruộng đất vào tay mình: từ 1100 đinh ruộng (1 đinh bằng
15 mẫu) sở hữu vào năm 1882, cho đến năm 1886 Hoàng gia đã sở hữu một số
ruộng gấp 30 lần như vậy. Khi ban bố Hiến pháp Đế quốc Nhật Bản (1889),
con số này lên tới 1121048 đinh, qua năm sau (1890) tăng gần 3 lần, lên
đến 3069533 đinh. Hầu hết số ruộng này nằm ở các vùng như Phú Sĩ, Mộc
Tăng, Thiên Thành – đây là những nơi có ruộng đất và bãi chăn nuôi tốt
nhất Nhật Bản. Nội sảnh đã phải mở thêm một Cục Ngự dụng để quản lý số
ruộng đất khổng lồ đó. Đồng thời, kể từ năm 1882, Thiên hoàng cũng sở
hửu một lượng lớn chứng khoán, giá trị lên tới 5 triệu Yên trong cổ phần
Ngân hoàng Nhà nước Nhật Bản, 1 triệu Yên trong Ngân hàng Yokohama,
2,06 triệu Yên trong cổ phần công ty du thuyền Nhật Bản. Đây là một con
số cực kỳ lớn so với 1 vạn Yên mà Thiên hoàng Minh Trị thừa hưởng từ Phụ
hoàng Hiếu Minh.

Như vậy Thiên hoàng Minh Trị đã trở thành địa chủ và tài phiệt lớn nhất
Nhật Bản, điều này đã xác lập nền tảng tài chính vững chắc cho sự thống
trị của Thiên hoàng.

Khôi phục, củng cố hình ảnh Thiên hoàng

Hình ảnh
Thiên hoàng Minh Trị (1887), mộc bản được in bởi Toyohara Chikanobu (1838 – 1912).

Một biện pháp khác trong việc củng cố quyền lực của Thiên hoàng chính là
nâng cao uy tín và ảnh hưởng của mình trong dân chúng. Trước đây, do
chính sách cô lập và cách ly của chính quyền Mạc phủ suốt nhiều thế kỷ,
hình ảnh của Thiên hoàng rất ít được phổ biến trong dân chúng. Nhiều câu
ca dao đã ví Thiên hoàng như "con chim phượng hoàng bị sa cơ, con chim
trĩ chạy lửa rừng đang thiêu đốt". Nay Thiên hoàng Minh Trị và triều
đình không cho phép chuyện đó xảy ra nữa, Họ dùng đủ mọi biện pháp tuyên
truyền để nâng cao uy tín Thiên hoàng.

Triều đình Nhật Bản lúc này đã phát động một phong trào Thần thánh hóa
Thiên hoàng khắp trong cả nước. Họ tuyên truyền rằng Thiên hoàng một vị
Thần, thậm chí còn có địa vị cao hơn hẳn các vị thần khác vì theo truyền
thống của Nhật Bản, Thiên hoàng là con cháu của Thái Dương Thần Nữ. Một
điện thờ được xây trong Hoàng cung, và một hệ thống miếu thờ được xây
dựng ở các địa phương trên phạm vi toàn quốc. Năm 1879, triều đình đổi
một miếu thờ cô hồn trên đường Cửu Đoạn Bản ở thủ đô Đông Kinh (được xây
dựng từ tháng 6 năm 1869) thành Miếu Quốc Thần thờ phụng các chí sĩ đã
hy sinh trong sự nghiệp lật đổ Mạc phủ. Về sau, theo đà phát triển của
chủ nghĩa quân quốc Nhật Bản, tất cả những ai chết vì Thiên hoàng – kể
cả những tướng sĩ chết trong các cuộc chiến tranh xâm lược, trong đó có
những tội phạm chiến tranh – đều được thờ trong Miếu Quốc Thần.

Một tờ cáo thị thời đó đã viết:

“Suy nghĩ kỹ đi nào ! Nước Nhật Bản là do tổ tiên của Thiên hoàng
khai sáng. Tất cả những gì trên đất nước Nhật Bản đều là của Thiên
hoàng. Khi các ngươi vừa sinh ra thì phải dùng nước của Thiên hoàng để
tắm, và khi chết đi thì phải chôn xuống đất của Thiên hoàng.”

Đồng thời, ngay từ cuối năm 1873, ảnh của ông đã được phân phối đến các
huyện để treo ở gian phòng chính, và kể từ tháng 1 năm 1874, triều đình
cho phép người dân tới đây để quỳ lạy trước ảnh Thiên hoàng. Việc quỳ
lạy ảnh chân dung Thiên hoàng được xem là một nghi thức thiêng liêng
thần thánh, trước giờ chưa từng xảy ra. Vì vậy, phàm ai quỳ lạy ảnh
Thiên hoàng phải ăn mặc chỉnh tề, sạch sẽ theo lễ phục Nhật Bản; việc
nói chuyện ồn ào bị cấm đoán nghiêm khắc. Việc cất giữ ảnh Thiên hoàng
trong nhân dân cũng bị nghiêm cấm, ai vi phạm sẽ bị trừng trị theo quốc
pháp. Đồng thời, đối với học sinh, chỉ những ai theo học ở các trường
lớn, có tiếng tăm mới có "diễm phúc" được quỳ lạy ảnh Thiên hoàng treo
trong trường học. Ảnh của Thiên hoàng không được phân phát đến các
trường học nhỏ, các trường tư; họ chỉ có thể tổ chức cho học sinh đến
các trụ sở huyện hoặc đến các trường học lớn để lạy ảnh Thiên hoàng.

Thiên hoàng cũng liên tục tổ chức nhiều chuyến đi thị sát tại các địa
phương, trong suốt 45 năm tại vị ông đã tổ chức đi thị sát cả thảy 96
lần. Mục đích thực chất của các chuyến "vi hành" này chỉ nhằm nâng cao
uy thế và gieo vào lòng quần chúng nhân dân hình ảnh "nhân từ" của Thiên
hoàng. Chính vì vậy các chuyến vi hành được tổ chức hết sức rầm rộ theo
hình thức tiền hô hậu ủng. Phàm ai nhìn thấy lá cờ Thiên hoàng của đoàn
vi hành đều phải đứng dạt ra bên vệ đường và ngả mũ cung kính chào.
Trong các chuyến "thị sát" kiểu như thế này, Thiên hoàng thường ban phát
ân huệ cho những người con hiếu thảo, những tiết phụ, những người già,
người nghèo neo đơn không nơi nương tựa, hoặc đến bên bờ ruộng xem nông
dân cày cấy, tỏ ra quan tâm đến cuộc sống của người bình dân lao khổ.

Trong việc giáo dục, triều đình Thiên hoàng yêu cầu phải tập trung phổ
biến, truyền bá tư tưởng "trung quân ái quốc" cho các học sinh. Sắc lệnh
giáo dục năm 1880 quy định nhà trường đối với môn lịch sử phải đặt
trọng tâm vào thể chế kiến quốc, tức "Chủ nghĩa hoàng gia là trung tâm"
từ Thiên hoàng Thần Vũ lên nối ngôi trở về sau. Năm 1890, Thiên hoàng
Minh Trị đích thân ban bố Giáo dục sắc ngữ, lấy việc "phụ tá hoàng vận",
"chí trung chí hiếu" làm căn bản, bắt buộc mỗi học sinh hàng ngày phải
quỳ lạy trước ảnh Thiên hoàng, phải nhớ nằm lòng "Sắc ngữ" của Thiên
hoàng và "Di huấn của Hoàng tổ Hoàng tông". Một đoạn trong "Giáo viên
Tiểu học cần biết" soạn thảo năm 1881 có ghi:

“ …phàm dạy môn lịch sử trước tiên là phải bồi dưỡng chí khí tôn
vương ái quốc… Trách nhiệm của giáo viên là phải dạy cho học sinh hiểu
rõ việc trung thành với hoàng gia, yêu quốc gia… ”

Về mặt quân sự, ngày 4 tháng 1 năm 1882 ông ban bố "Quân nhân Sắc luận", ghi rõ:

"Trẫm là Đại nguyên soái của quân nhân các ngươi… là hai cánh tay của các ngươi.",
đồng thời quy định rằng các quân nhân phải làm tròn "năm điều quy định
của võ sĩ đạo": tận trung, lễ nghĩa, tín nghĩa, trọng võ dũng, tiết kiệm
giản dị; đặc biệt "tận trung" được ưu tiên số một. Cụ thể, người quân
nhân phải "trung quân ái quốc", phải sùng bái Thiên hoàng như một vị
Thần. Tinh thần võ sĩ đạo do Thiên hoàng đề xướng nằm nô dịch hóa trong
việc giáo dục quân nhân, biến người lính Nhật Bản thành tên nô lệ cầm
súng cho Thiên hoàng, trở thành công cụ cho mục tiêu bành trướng xâm
lược của các thế lực quân phiệt Nhật Bản.
Hình ảnh
...những bài viết, những dòng bình luận của bạn sẽ làm diễn đàn ngày một phát triển.
Hình đại diện của thành viên
admin
Quản trị diễn đàn
Quản trị diễn đàn
 
Bài viết: 2278
Ngày tham gia: 17 Tháng 2 2011
Đến từ: Hà Nội

Re: Tìm hiểu về Minh Trị Thiên Hoàng Meiji Tenno

Gửi bàigửi bởi admin » 25 Tháng 8 2011

Cải cách về việc thiết trí cơ cấu và nhân sự

Thiên hoàng mong thần dân có đủ sức khoẻ, để giúp ông đổi mới và hoà
nhập nước Nhật với thế giới bên ngoài. Vì thế, ông bãi bỏ chế độ ăn chay
trong toàn dân, lại còn giết và ăn thịt con bò đầu tiên để làm gương
cho nhân dân.

Sau khi Thiên hoàng Minh Trị đích thân chấp chính, ông đã tạo ra nhiều
thay đổi trong việc bãi miễn, bổ nhiệm nhân sự và thiết trí cơ cấu.
Tháng 7 năm 1884, triều đình soạn thảo "Hoa tộc lệnh", gộp chung các
công khanh, các lãnh chúa đại danh cũ và các công thần Duy Tân xuất thân
từ sĩ tộc thành Hoa Tộc. Những người này sẽ được Thiên hoàng đích thân
phong tước vị cho họ, các tước vị này được chia làm năm bậc: công, hầu,
bá, tử, nam như phương Tây. Những người này trở thành vây cánh của hoàng
gia và củng cố sự thống trị của Thiên hoàng. Như vậy là một chế độ quý
tộc mới đã được hình thành tại Nhật Bản.

Đến cuối năm 1885, Thiên hoàng bãi bỏ chế độ Thái chính quan cũ, xây
dựng chế độ Nội các dập khuôn theo hình mẫu phương Tây. Đứng đầu Nội các
là Tổng lý đại thần (tương đương với Thủ tướng) và Quốc vụ đại thần.
Nội các này sẽ là một tổ chức trực thuộc vào Thiên hoàng.

Một cải cách khác về mặt nội chính của Thiên hoàng Minh Trị là ban bố Hiến pháp đầu tiên trong lịch sử Nhật Bản.

Đại Nhật Bản Đế Quốc Hiến pháp năm 1889

Trước sức ép của người dân, như đã nói, triều đình Thiên hoàng đã hứa
hẹn sẽ thành lập quốc hội soạn thảo một bản Hiến pháp cho đất nước. Để
soạn thảo bản Hiến pháp này, năm 1882 Thiên hoàng Minh Trị đã gửi một
phái đoàn do Itō Hirobumi đến các quốc gia ở châu Âu để tham khảo pháp
luật của các quốc gia này. Cuối cùng nhóm khảo sát quyết định chọn hiến
pháp của Phổ để làm khuôn mẫu cho hiến pháp tương lai của Nhật Bản. Tiếp
đó, ông tổ chức một nhóm người bí mật tiến hành việc soạn thảo hiến
pháp. Khi thẩm nghị cuối cùng, ông đã cùng với nhóm này tổ chức nhiều
cuộc họp kín suốt mấy tháng liền, trong đó mọi người đem bản Hiến pháp
ra mổ xẻ kỹ lưỡng, canh từng câu từng chữ, thảo luận, bàn cãi về từng
điều khoản một trong đó. Thậm chí khi được tin con gái là Du Nhân bị
bệnh mất, Thiên hoàng cũng không rời khỏi cuộc họp mà vẫn tiếp tục bàn
luận với triều thần.

Cuối cùng, bản Hiến pháp đầu tiên của Nhật Bản đã được công bố đúng vào
ngày kỷ niệm việc nối ngôi của Thiên hoàng Thần Vũ (11 tháng 2 năm 1889,
niên hiệu Minh Trị thứ 22). Hôm đó, Thiên hoàng Minh Trị cùng bá quan
văn võ và các sứ thần ngoại quốc đến điện Ô Minh trong Hoàng cung để làm
lễ triều bái trước Gương thần Ngự Linh – đại biểu cho Thiên Chiếu Đại
Thần – rồi sau đó mọi người lại tới điện Hoàng linh để đọc bản Thần Văn
bố cáo lên chư thần cùng hồn thiêng của các đời liệt tổ liệt tông:

“ Theo đà phát triển của thời đại, cần phải viết ra thành văn bản
những lời di huấn của tổ tiên các thời đại, lấy đó làm căn cứ cho con
cháu của Thiên hoàng tuân theo, đồng thời, qua sự phụ tá của thần dân mở
rộng bước đường của Thiên hoàng để cho tất cả sẽ tuân thủ vĩnh viễn.
Cho nên nay mới soạn thảo ra Điển phạm và Hiến pháp của Hoàng gia, kính
thỉnh chư thần khen ngợi. ”

Sau đó, sắc chỉ ban hành hiến pháp được chính thức tuyên bố. Theo Hiến
pháp, Thiên hoàng có quyền hành "thiêng liêng bất khả xâm phạm", là
Nguyên thủ quốc gia, nắm trọn quyền thống trị. Về mặt đối nội, Thiên
hoàng có thể dựa vào hiến pháp để triệu tập hoặc giải tán nghị hội, bổ
nhiệm hoặc bãi miễn quan lại và chỉ huy quân đội. Về mặt đối ngoại,
Thiên hoàng có quyền tuyên chiến, giảng hòa, ký kết hòa ước. Các cơ cấu
của quốc gia được hành xử chức năng và quyền hạn bên dưới Thiên hoàng:
nghị hội trợ giúp Thiên hoàng thẩm nghị chính vụ của quốc gia, tòa án
lấy danh nghĩa của Thiên hoàng để xét xử, Viện khu mật là cơ quan tư vấn
của Thiên hoàng. Đồng thời, theo Hiến pháp, người dân Nhật Bản là "thần
dân" của Thiên hoàng, phải thi hành nghĩa vụ của thần dân và không được
cản trở Thiên hoàng hành sự đại quyền.

Như vậy là Hiến pháp đã xác lập quyền uy tuyệt đối của Thiên hoàng tại
Nhật Bản, duy trì tính "thiêng liêng bất khả xâm phạm" của Thiên hoàng
như thời đại quân chủ chuyên chế, và giúp cho Thiên hoàng tập trung toàn
bộ quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp – tức toàn bộ đại quyền của quốc
gia – vào bàn tay sắt cùa mình. Tuy nhiên, Thiên hoàng buộc phải dựa vào
các điều luật ghi trong Hiến pháp để thực thi đại quyền của mình, và
khi Thiên hoàng lấy danh nghĩa của mình để ban bố các sắc lệnh về pháp
luật, quốc vụ thì "phải được quốc vụ đại thần cùng ký tên". Như vậy bản
Hiến pháp cũng đã hạn chế ảnh hưởng của Thiên hoàng trong việc triều
chính, góp phần giúp Nhật Bản chuyển dần từ chế độ quân chủ chuyên chế
sang chế độ quân chủ lập hiến, chính trị đảng phái của giai cấp tư sản.

Những hoạt động ngoại giao


Buổi tiếp của Thiên hoàng Minh Trị với phái đoàn quân sự thứ hai của Pháp đến Nhật Bản, 1872.



Hoàng thân Arthur phong Cấp bậc Garter cho Thiên hoàng Minh Trị. Đến nay, ông là người châu Á duy nhất nhận Cấp bậc này.


Triều đình Minh Trị không theo đuổi mục tiêu trục xuất các lợi ích ngoại
quốc khỏi Nhật Bản, mà thay vào đó là mạnh mẽ chuyển mục tiêu chính trị
sang việc tiếp tục hiện đại hóa quốc gia và tái đàm phán các hiệp ước
bất bình đẳng với các cường quốc, sau này trở thành khẩu hiệu "Phú quốc,
Cường binh" (Nhật: 富国強兵 fukoku kyōhei). Sự thay đổi thái độ với người
ngoại quốc này diễn ra trong những ngày đầu của cuộc nội chiến: vào ngày
8 tháng 4 năm 1868, một tấm biển được dựng lên ở Kyōto (và sau này trên
toàn quốc) đặc biệt phản đối bạo lực đối với người nước ngoài.[41]
Trong chiến tranh Mậu Thìn, đích thân Thiên hoàng Minh Trị tiếp kiến các
Công sứ châu Âu, đầu tiên là ở cố đô Kyōto, sau đó là Osaka và thủ đô
Đông Kinh. Một việc chưa từng có tiền lệ là buổi tiếp Alfred, Công tước
xứ Edinburgh, tại Đông Kinh, "như một người “ngang hàng” với ông về khía
cạnh dòng máu".

Mặc dù những năm đầu thời kỳ Minh Trị chứng kiến sự nồng ấm trong quan
hệ của triều đình với các cường quốc, quan hệ với Pháp vẫn lạnh nhạt vì
sự ủng hộ ban đầu của Pháp với Tướng quân. Tuy vậy không lâu sau đó phái
đoàn quân sự thứ hai được mời đến Nhật năm 1874, và phái đoàn thứ ba
năm 1884. Sự hợp tác ở cấp cao trở lại năm 1886, khi Pháp giúp đóng hạm
đội lớn đầu tiên của Hải quân Hoàng gia Nhật Bản, dưới sự hướng dẫn của
kỹ sư hải quân Louis-Émile Bertin.

Ngày 5 tháng 11 năm 1872, Đại công tước Alexei Alexandrovich của nước
Nga viếng thăm Nhật Bản, được Thiên hoàng Minh Trị đón tiếp.

Ngày 4 tháng 9 năm 1869, Công tước xứ Edinburgh viếng thăm Nhật Bản, được Thiên hoàng Minh Trị tiếp đón.

Năm 1881, vua Kalakaua của xứ Hawaii thăm Nhật. Đây là lần đầu tiên Nhật Bản được một quân vương ngoại quốc sang thăm viếng.

Năm 1902, Nhật Bản và Anh Quốc thành lập liên minh.[30] Kết quả của việc
này là Thiên hoàng Minh Trị được Hoàng thân Arthur xứ Connaught phong
Cấp bậc Garter năm 1906.
Hình ảnh
...những bài viết, những dòng bình luận của bạn sẽ làm diễn đàn ngày một phát triển.
Hình đại diện của thành viên
admin
Quản trị diễn đàn
Quản trị diễn đàn
 
Bài viết: 2278
Ngày tham gia: 17 Tháng 2 2011
Đến từ: Hà Nội

Re: Tìm hiểu về Minh Trị Thiên Hoàng Meiji Tenno

Gửi bàigửi bởi admin » 25 Tháng 8 2011

Những hoạt động bành trướng lãnh thổ

Như xu thế thường thấy thời đó, quá trình phát triển của Nhật Bản không
tránh khỏi việc mở rộng thế lực ra bên ngoài. Thêm nữa, vốn được giáo
dục bởi chủ nghĩa quân quốc ngay từ thời trẻ, nên trong thời kỳ cầm
quyền của mình, Thiên hoàng Minh Trị luôn kiên trì chính sách "kiêm lục
hợp" (gồm thu bốn bể) và "yểm bác hoành" (gồm thu toàn cầu), tức chính
sách bành trướng xâm lược, mở rộng lãnh thổ ra bên ngoài. Ông gần như
lúc nào cũng mặc một bộ quân phục kiểu cổ, để một bộ râu rậm kiểu phương
Đông và luôn ngậm một tẩu thuốc làm bằng vỏ đạn súng trường. Ông thích
cưỡi một con ngựa to lớn, thường xuất hiện trong các buổi lể tốt nghiệp
của sinh viên lục quân hay trong các buổi lể kết thúc một lớp huấn luyện
quân sự. Có khi Thiên hoàng đích thân tham gia diễn tập quân sự và
thường cho gọi các binh sĩ đến để tuyên dương, khuyến khích "oai nước",
đề cao "vận nước" của Nhật Bản.

Ngay từ thập niên 1880, triều đình Minh Trị đã xúc tiến xây dựng một
quân đội hùng mạnh nhằm mục tiêu phát động các cuộc chiến tranh xâm lược
với lân bang, cụ thể mục tiêu trước mắt chính là Trung Quốc thời nhà
Thanh. Tháng 11 năm 1880, Bộ trưởng Bộ Tổng tham mưu Yamagata Aritomo
(Sơn Huyện Hữu Bằng) trình lên cho Thiên hoàng bản "Lân bang binh bị
lược". Đến năm 1882, "Trình báo về tài chính để tăng cường lục quân và
hải quân" được xuất bản, chủ trương gấp rút tăng cường quân bị dù phải
chấp nhận hy sinh tất cả. Thiên hoàng tỏ ý hài lòng và cho tiến hành
thực thi. Cùng năm đó ông triệu kiến tất cả các Trưởng quan tại các địa
phương và ra Thánh chỉ với nội dung: "Các khanh đều là quan địa phương,
vậy tất nhiên phải hiểu ý muốn của Trẫm, đảm bảo chấp hành quán triệt
những ý muốn đó". Đến tháng 12, Thiên hoàng lại ra sắc chiếu cho Thái
Chính đại thần về việc tăng cường quân bị. Dưới sự đốc thúc của Thiên
hoàng, quân đội Nhật tăng trưởng nhanh chóng: năm 1893 quân số của lục
quân Nhật là 23 vạn người, còn Hải quân sau 10 năm phát triển đã có 55
tàu chiến với tổng trọng tải 7 vạn tấn.

Tuy nhiên, việc thi hành tăng cường quân bị cũng gặp nhiều trở lực lớn.
Nhiều đại biểu Nghị viện đã phản đối quyết liệt chính sách tăng cường
quân bị do bất mãn với việc quân phí càng lúc càng cao. Nghị hội khóa II
(1891) đã tuyên bố không thông qua dự chi quân phí của triều đình và
thế là bị Thiên hoàng giải tán. Nghị hội khóa IV (1893) lại tuyên bố cắt
giảm chi phí xây dựng hạm đội. Thế là Thiên hoàng quyết định ra lệnh
cho bá quan văn võ phải trích 1/10 tiền lương bổng của mình trong 6 năm
để đóng góp cho hải quân, bản thân Thiên hoàng cũng tự mình bỏ ra 30 vạn
Yên để trang trải chi phí xây dựng hạm đội.

Và tất nhiên, trong quá trình bành trướng, Nhật Bản không tránh khỏi
việc va chạm với các thế lực lớn khác, cụ thể lúc bấy giờ là Nga và
Trung Quốc thời Nhà Thanh.

Chiến tranh với nhà Thanh

Thấy người Trung Quốc giết hại nhiều thương gia đến từ Okinawa (Nhật),
ông phát động chiến dịch chinh phạt Đài Loan vào tháng 5 năm 1874. Người
Nhật ép triều đình Mãn Thanh phải bồi thường thiệt hại cho họ, và gia
đình các thương gia bị tàn sát. Ngày 26 tháng 12 năm sau, triều đình
Nhật Bản ký hoà ước với nhà Triều Tiên, mục đích để tập trung nhân lực
và tài trí mà canh tân đất nước.

Năm 1894, ông tuyên chiến với nhà Thanh. Cuộc chiến tranh Giáp Ngọ bùng
nổ. Đây là cuộc chiến tranh mà người Nhật đã chuẩn bị từ lâu, vì ngay từ
thập niên 1880 họ đã xem Thanh đình là kẻ thù giả định. Để thuận lợi
cho việc nắm bắt tình hình chiến sự và tránh việc xao nhãng bởi sự vụ
trong cung, Thiên hoàng dời đại bản doanh đến thành phố Hiroshima. Nhằm
động viên sĩ khí, ông phái Chiêu Hiến Hoàng hậu đến thăm hỏi các thương
binh tại y viện lục quân, còn mình thì liên tục ban sắc lệnh, viết thơ
ca để khen tặng những chiến thắng của quân đội Nhật Bản. Thật vậy, quân
Nhật liên tiếp giành được thắng lợi, chiếm cảng Lữ Thuận, Liêu Đông, tấn
công và cướp phá Trung Quốc. Việc chiếm đóng trên bán đảo Đài Loan được
củng cố. Thiên hoàng đã đích thân phổ một bản nhạc mừng chiến thắng ở
Hoàng Hải, mô tả cuộc chiến tranh với Thanh đình thành một "cuộc chiến
đấu trung dũng nghĩa liệt". Trong thời kỳ hòa đàm sau chiến tranh, Thiên
hoàng Minh Trị đích thân chỉ huy tiến độ đàm phán. Ông ra lệnh cho sứ
thần Nhật Bản phải ra những điều kiện mà ai nghe cũng phải giật mình.
Mãi sau khi Hòa ước Mã Quan (Shimonoseki) được ký kết, ông mới vui vẻ
quay về thủ đô Đông Kinh.

Tuy nhiên, có một điều mà ông không tiên liệu được, đó là việc các nước
khác không ngồi yên nhìn Nhật Bản bành trướng. Lo ngại trước thế lực
đang lên của Nhật Bản, đế quốc Nga cùng với Đức và Pháp đã gây sức ép,
buộc Minh Trị nhượng lại đảo Đài Loan, quần đảo Bành Hồ và Liêu Đông cho
Trung Quốc. Thái độ của người Nga khiến Nhật Bản hết sức tức giận,
nhưng Thiên hoàng hiểu là không thể gây chiến với nước Nga lúc này. Ông
ra chỉ thị cho sứ thần Nhật Bản:

“ Quyền lợi có được từ Liêu Đông không lớn, có thể bỏ. Sau này chúng ta có thể từ Triều Tiên và các vùng đất khác vơ vét lại. ”

Minh Trị Thiên hoàng,
Dầu sao thì cuộc chiến tranh Giáp Ngọ đã đem lại cho Nhật Bản một món
tiền bồi thường rất lớn (3 tỉ 60 triệu Yên Nhật). Thiên hoàng đem 3 tỷ
40 triệu Yên tăng cường cho quân đội, phần còn lại ông tự tiêu dùng.

Từ năm 1895 đến năm 1898, người nước ngoài ở Bắc Kinh bị tổ chức Nghĩa
Hoà Đoàn hạ nhục. Viện cớ “trừng trị phong trào Nghĩa Hoà Đoàn bài
ngoại”, Nhật can thiệp vào tình hình Trung Quốc. Trên thực tế, điều này
cho thấy Nhật muốn phô trương sức mạnh trước Nga. Để tập trung lực lượng
đánh Nga, ngày 31 tháng 1 năm 1902, triều đình Minh Trị ký hoà ước với
Anh Quốc, thành lập liên minh Anh-Nhật.

Chiến tranh Nga-Nhật

Người Nhật dĩ nhiên không dễ dàng chịu từ bỏ những vùng đất bị mất vào
tay Nga và không bao giờ quên việc Nga đã cưỡng ép họ như thế nào. Họ
tích cực chuẩn bị tăng cường lực lượng quân sự và sau 10 năm, thực lực
của Nhật Bản tiến thêm một bước đáng kể. Lúc này Thiên hoàng Minh Trị
chuyển trọng tâm chủ yếu vào vùng Đông Bắc Trung Quốc, lúc này đã nằm
yên dưới thế lực của đế quốc Nga. Ông quyết tâm đòi lại những gì mà
người Nga đã cướp đoạt của mình 10 năm về trước. Ngày 4 tháng 2 năm
1904, ông chủ trì một cuộc họp ngự tiền khẩn cấp đề bàn thảo kế hoạch
chiến tranh. Sáu ngày sau, Thiên hoàng xuống chiếu thư tuyên chiến với
nước Nga. Chiến tranh Nga-Nhật bùng nổ.

Một lần nữa, Thiên hoàng lại dời đại bản doanh tới Hiroshima để điều
hành chiến sự. Ông cùng với các tướng lĩnh cao cấp nghiên cứu tình hình
chiến sự cho tới tận đêm khuya, đồng thời luôn thắp nhang khấn vái tổ
tiên, chư thần phù hộ cho Nhật Bản thắng lợi. Nhờ đường lối sách lược
đúng đắn của triều đình Minh Trị, Nhật liên tiếp giành chiến thắng trước
Nga trên cả thủy lẫn bộ ở Viễn Đông và Thái Bình Dương. Cuối cùng,
chiến thắng lẫy lừng tại Đảo Đối Mã đã quyết định cuộc chiến. Những vùng
đất rộng lớn như Mãn Châu, thành phố cảng Lữ Thuận (thuộc Trung Quốc)
đều rơi vào tay Nhật Bản. Người Nhật trên thực tế đã trở thành bá chủ
tại khu vực biển Đông.

Sáp nhập Triều Tiên

Năm 1910, bán đảo Triều Tiên bị sáp nhập vào đế quốc Nhật Bản[3], vương
triều Triều Tiên cáo chung. Một nhà cách mạng Triều Tiên là An Trọng Căn
(An Jung-geun) đã ám sát Itō Hirobumi – người chủ mưu trong kế hoạch
sáp nhập Triều Tiên vào Nhật Bản. Có ý kiến cho rằng An Trọng Căn hâm mộ
Minh Trị Thiên hoàng và phê phán Itō Hirobumi là kẻ phá hoại sự nghiệp
của Minh Trị. Đó là một trong những lý do An ám sát Ito Hirobumi.
Hình ảnh
...những bài viết, những dòng bình luận của bạn sẽ làm diễn đàn ngày một phát triển.
Hình đại diện của thành viên
admin
Quản trị diễn đàn
Quản trị diễn đàn
 
Bài viết: 2278
Ngày tham gia: 17 Tháng 2 2011
Đến từ: Hà Nội

Re: Tìm hiểu về Minh Trị Thiên Hoàng Meiji Tenno

Gửi bàigửi bởi admin » 25 Tháng 8 2011

Những cuộc nổi dậy và vụ ám sát thời Minh Trị

Khoảng cuối thập niên 1860 đến 1881 chứng kiến một thời kì của những cuộc nổi dậy và vụ ám sát ở Nhật Bản, tiêu biểu như:

* Bất chấp sự ủng hộ triều đình của tầng lớp võ sĩ samurai, nhiều cải
cách đầu thời Minh Trị đã gây bất lợi cho lợi ích của họ: thành lập quân
đội theo chế độ nhập ngũ từ dân thường, mất đi uy tín và lương bổng cha
truyền con nối đã tạo nên sự đối kháng với rất nhiều cựu samurai[52]
cũng như không được mang gươm khi đi ngoài đường theo chiếu chỉ của
Thiên hoàng Minh Trị (28 tháng 3 năm 1875). Sự căng thẳng dâng cao ở
miền Nam, dẫn đến Cuộc nổi loạn Saga năm 1874, và nổi loạn ở Chōshū năm
1876. Các cựu samurai ở Satsuma, lãnh đạo bởi Saigō Takamori (Tây Hương
Long Thịnh), người đã ly khai triều đình vì bất đồng với chính sách đối
ngoại, bắt đầu cuộc Chiến tranh Tây Nam năm 1877. Lúc đó, Saigō chưa
chuẩn bị cho cuộc bạo loạn. Nhưng những samurai địa phương nghe được tin
rằng triều đình cử người tới giết Saigō. Họ bèn khởi xướng một chiến
dịch tấn công Đông Kinh để đương đầu với triều đình Minh Trị và giúp
Thiên hoàng thoát khỏi “đám cố vấn xấu xa” của ông. Chiến đấu để bảo tồn
tầng lớp samurai và một chính quyền đạo đức hơn, khẩu hiệu của họ "Tân
chính, Hậu đức" (Nhật: 新政厚徳 shinsei kōtoku?). Cuộc chiến tranh chấm dứt
bằng trận đánh anh hùng nhưng hoàn toàn thất bại Shiroyama. Saigō đã tự
sát bằng cách mổ bụng truyền thống của người võ sĩ, gọi là seppuku, và
được triều đình Minh Trị ân xá năm 1891.

* Năm Minh Trị thứ 10 (1878), Bộ trưởng Nội vụ Ōkubo Toshimichi bị ám
sát. Với sự kiện này, thế hệ lãnh đạo thứ nhất của cuộc cách mạng Minh
Trị hầu như hết người. Quyền hành trong triều đình Minh Trị được chuyển
sang cho thế hệ lãnh đạo cách mạng thứ hai, bao gồm các ông Itō
Hirobumi, Yamagata Aritomo.

Cuối triều Minh Trị, nhiều người theo chủ nghĩa vô chính phủ, trong đó
có Kōtoku Shūsui (Hạnh Đức Thu Thủy), bị xử tử vì tội phản nghịch, nói
cách khác là tội mưu sát Thiên hoàng. Cuộc âm mưu này được gọi là “Đại
nghịch sự kiện” (大逆事件, Taigyaku Jiken).

Qua đời



Lễ quốc tang Minh Trị Thiên hoàng.

Ngày 30 tháng 7 năm 1912, ông qua đời do bệnh ung thư dạ dày, hưởng thọ
60 tuổi, được đặt thụy hiệu là Minh Trị Thiên hoàng. Ông là vị Thiên
hoàng đầu tiên ở ngôi qua tuổi 50, kể từ khi Thiên hoàng Chính Thân Đinh
thoái vị năm 1598.

Chi tiết về Lễ quốc tang được đăng trong tờ thời báo New York với lời nhận xét:

“The contrast between that which preceded the funeral car and that
which followed it was striking indeed. Before it went old Japan; after
it came new Japan.”

Tạm dịch:

“Sự tương phản giữa phía trước và phía sau cái chết của người này
thật sự gây ấn tượng. Phía trước là một Nhật Bản cũ; phía sau là một
Nhật Bản mới.”

Hoàng thái tử Yoshihito (Gia Nhân) lên nối ngôi, tức là Thiên hoàng Đại
Chính – vị Thiên hoàng thứ 123 trong lịch sử Nhật Bản. Năm 1920, Thiên
hoàng Đại Chính xuống lệnh xây dựng Minh Trị Thần Cung để kỷ niệm phụ
hoàng. Và từ năm 1927, Thiên hoàng Chiêu Hòa tuyên bố ngày 3 tháng 11 –
sinh nhật của Thiên hoàng Minh Trị – trở thành một ngày lễ mang tên "lễ
Minh Trị".

Di sản


Dòng dõi Hoàng gia từ thời Thần Vũ Thiên hoàng đến Minh Trị Thiên hoàng.

Với bản tính can đảm, quyết đoán trong các đường lối sách lược và hết
mực thương dân, ông được xem là đấng minh quân ở Nhật Bản. Triều đại ông
được ghi chép vào sử sách cận đại như một giai đoạn canh tân đất nước
Mặt trời mọc. Minh Trị Duy Tân, cuộc đổi mới do triều đình Minh Trị thực
hiện, được xem là cuộc cách mạng tư sản không triệt để. Tuy nhiên, cuộc
Minh Trị Duy Tân đã dẫn đến các thay đổi lớn lao trong cấu trúc xã hội
và chính trị Nhật Bản, cũng như đem lại niềm vinh dự cho nước này: đưa
nước Nhật thoát khỏi chế độ phong kiến và nguy cơ trở thành thuộc địa
của các đế quốc phương Tây, tiến lên chủ nghĩa tư bản và chủ nghĩa đế
quốc, trở thành một quốc gia công nghiệp hiện đại. Trong quá trình này,
Thiên hoàng Minh Trị đã đóng góp rất nhiều công sức giúp cho các thế lực
duy tân đánh bại chế độ Mạc phủ, tiến hành cải cách đất nước, đưa Nhật
Bản đi lên con đường phồn vinh, phú cường.

Trong Sử Trung Quốc (1997), học giả Nguyễn Hiến Lê ghi nhận:

“ …công việc duy tân ở Nhật tiến rất mau, chỉ từ 1872 đên 1900 đã
theo kịp Âu Mĩ, năm 1905 thắng được một nước bạch chủng là Nga. Sử gia
Mỹ Eberhard bảo như vậy là nhờ từ mấy thế kỷ trước Nhật đã có một giai
cấp tư bản bourgeois (tức thương nhân) “cộng sinh” với giai cấp chư hầu
(feudataire) lớn, giai cấp trên (bourgeois) để chuyển qua chế độ tư bản,
còn giai cấp sau biến thành bọn đế quốc kiểu Âu.
Có thể đó là một lý do quan trọng. Lý do chính là Minh Trị Thiên Hoàng sáng suốt, nhiệt tầm vì quốc gia dân tộc.”

Nguyễn Hiến Lê
Dưới triều đại Minh Trị, nền văn hoá Tây Âu lan truyền vào Nhật Bản,
được áp dụng trong nhiều lĩnh vực. Tuy nhiên, triều đình không áp đặt
cái tư tưởng tự do, chế độ gia đình Tây Âu lên nước Nhật. Theo Mười hai
người lập ra nước Nhật, cách gạn lọc này được gọi là “hồn Nhật Bản, tài
Tây Âu”. Truyền thống tư tưởng này khiến cho người Nhật luôn tiếp nhận
những cái mới mẻ về văn hoá, kỹ thuật của nước ngoài. Dù là người chủ
trì dự thảo và ban hành Hiến pháp Đế quốc Nhật Bản (1889), thiết lập
Nghị viện, phổ cập giáo dục, phát triển công nghiệp, cách tân xã hội,
hiện đại hóa quân đội, ông không quay lưng với những truyền thống lâu
đời, chẳng hạn như quyền lực của Hoàng gia.

Theo Bách khoa toàn thư Việt Nam, cuộc Minh Trị Duy Tân cũng có ảnh
hưởng lớn đến các phong trào kháng chiến chống đế quốc thực dân phương
Tây ở Trung Quốc, Việt Nam và các nước Đông Nam Á. (xem thêm bài Phan
Bội Châu, Tăng Bạt Hổ)

Song, sự phát triển của kinh tế Nhật Bản khiến giai cấp công nhân Nhật
Bản ngày càng bị bóc lột nặng nề và điều kiện làm việc ngày càng tồi tệ
dẫn đến sự đấu tranh của giai cấp công nhân. Năm 1901, đảng Xã hội Dân
chủ Nhật Bản được thành lập.[63] Đồng thời, việc bóp chết phong trào Tự
do và Dân quyền, những hoạt động bành trướng lãnh thổ do Thiên hoàng
Minh Trị khởi xướng đã góp phần đem đến những tai họa cho các nước Đông Á
và Đông Nam Á, kể cả nhân dân Nhật Bản.

Từ thời kỳ Minh Trị (1868 – 1912) sang thời kỳ Đại Chính (1912 – 1926),
Nhật Bản phát triển nhanh chóng với những thành công trong và ngoài
nước.
Hình ảnh
...những bài viết, những dòng bình luận của bạn sẽ làm diễn đàn ngày một phát triển.
Hình đại diện của thành viên
admin
Quản trị diễn đàn
Quản trị diễn đàn
 
Bài viết: 2278
Ngày tham gia: 17 Tháng 2 2011
Đến từ: Hà Nội

Re: Tìm hiểu về Minh Trị Thiên Hoàng Meiji Tenno

Gửi bàigửi bởi admin » 25 Tháng 8 2011

Trong văn hóa

Minh Trị Thiên hoàng đã sáng tác một bài thơ hoà bình theo thể tanka như sau:

“よもの海
みなはらからと
思ふ世に
など波風の
たちさわぐらむ”
“Yomo no umi
mina harakara to
omofu yo ni
nado namikaze no
tachi sawaguramu”

Tạm dịch:

Tất cả các đại dương trên thế giới
Hãy tin rằng
đều là bạn bè của tôi
chúng ta không nên xung đột lẫn nhau
[sửa]Trong phim ảnh
Bài chi tiết: Võ sĩ đạo cuối cùng
Nam diễn viên Shichiosuke Nakamura vào vai Thiên hoàng Minh Trị trong
phim Võ sĩ đạo cuối cùng của Hollywood, công chiếu năm năm 2003. Phim
kết hợp một hoàn cảnh lịch sử thuộc về cả chiến tranh Mậu Thìn và Chiến
tranh Tây Nam năm 1877, và vài cuộc nổi loạn của tầng lớp cựu samurai
đầu thời Minh Trị. Trong phim, do ông còn trẻ nên bị tài phiệt Omura – 1
kẻ bán nước – lấn lướt, ép phải thực hiện theo chiêu bài “hiện đại hóa”
của Omura. Thiên hoàng có thông điệp vĩ đại trước triều đình như sau:

“ Tổ tiên ta đã cai trị nước Nhật này từ 2.000 năm qua. Trong suốt
thời gian đó, chúng ta đã ngủ vùi. Đêm qua, khi ngủ ta đã nằm mơ. Mơ
thấy thống nhất đất nước. Mơ thấy một đất nước hùng mạnh, độc lập và
hiện đại.”

Minh Trị Thiên hoàng
Cũng trong phim, ông là vị Thiên hoàng thích canh tân đất nước, nhưng không bị những cái mới của phương Tây làm hoa mắt:
“Giờ đây chúng ta đã thức giấc. Chúng ta nay đã có đường sắt và quần áo
phương Tây. Thế nhưng, chúng ta không được phép quên chúng ta là ai, đến
từ đâu…”

Minh Trị Thiên hoàng
Gia quyến

Song thân

Cha: Thiên hoàng Hiếu Minh
Mẹ: Nakayama Yoshiko, hoàng phi của Thiên hoàng Hiếu Minh

Vợ

Hoàng hậu: Ichijo Masako, Chiêu Hiến Hoàng hậu. Ngày 2 tháng 9 năm 1867
đổi tên thành "Mỹ Tử" (Haruko). Mặc dù là hoàng hậu Nhật Bản đầu tiên
được công chúng thừa nhận, bà lại không có con với Thiên hoàng.

Các hoàng phi

* Thị nữ Mitsuko (1853 – 1873), không có nhiều thông tin về thị nữ
Mitsuko, dù vậy bà đã sinh cho Thiên Hoàng người con trai đầu lòng. Bà
mất khi sinh đẻ.

* Thị nữ Natsuko (1856 – 1873), không có nhiều thông tin về thị nữ
Natsuko, dù vậy bà đã sinh cho Thiên Hoàng người con gái đầu lòng và
cũng chết khi sinh đẻ.

* Yanagiwara Naruko (1855 – 1943)

* Chigusa Kotoko (1855 – 1944)

* Sono Sachiko (1867 – 1947)

Con cái

Ông có 15 người con, được sinh bởi các thị nữ chính thức. Chỉ có 5 người
con của ông, một hoàng tử con của thị nữ Naruko (1855–1943), con gái
của Yanagiwara Mitsunaru, và 4 công chúa con của thị nữ Sachiko
(1867–1947), con gái cả của Bá tước Sono Motosachi, không bị chết yểu.
Họ bao gồm:

* Hoàng thái tử, Minh cung Thân vương Yoshihito (Haru no miya Yoshihito
Shinnō), con trai thứ ba, (31 tháng 8 năm 1879 – 25 tháng 12 năm 1926)
(tức Thiên hoàng Đại Chính).

* Chiêu cung Công chúa Masako (Tsune-no-miya Masako Naishinnō, つねのみや
まさこ, 常宮昌子内親王), con gái thứ 6, (30 tháng 9 năm 1888 – 8 tháng 3 năm
1940), kết hôn với Hoàng thân Takeda Tsunehisa (Takeda-no-miya Tsunehisa
ō, 22 tháng 9 năm 1882 – 23 tháng 4 năm 1919) ở Hoàng cung, Đông Kinh,
30 tháng 4 năm 1908, và có con

* Chu cung Công chúa Fusako (Kane-no-miya Fusako Naishinnō, かねのみや ふさこ,
周宮房子内親王), con gái thứ 7, (28 tháng 1 năm 1890 – 11 tháng 8 năm 1974),
kết hôn với Hoàng thân Kitashirakawa Naruhisa (Kitashirakawa-no-miya
Naruhisa ō, 1 tháng 4 năm 1887 – 2 tháng 4 năm 1923) ngày 29 tháng 4 năm
1909 ở Hoàng cung, Đông Kinh, và có con.

* Phú cung Công chúa Nobuko (Fumi-no-miya Nobuko Naishinnō, ふみのみや のぶこ,
富美宮允子内親王), con gái thứ 8, (7 tháng 8 năm 1891 – 3 tháng 11 năm 1933),
kết hôn với Hoàng thân Asaka Yasuhiko (Asaka-no-miya Yasuhiko ō, 2 tháng
10 năm 1887 – 13 tháng 4 năm 1981) ngày 6 tháng 5 năm 1909 tại Hoàng
cung, Đông Kinh, và có con.

* Thái cung Công chúa Toshiko (Yasui-no-miya Toshiko Naishinnō, やすのみや
としこ, 泰宮聡子内親王), con gái thứ 9, (11 tháng 5 năm 1896 – 5 tháng 3 năm
1978), kết hôn với Hoàng thân Higashikuni Naruhiko ngày 18 tháng 5 năm
1915 (Higashikuni-no-miya Naruhiko ô, 3 tháng 12 năm 1887 – 20 tháng 1
năm 1990), và có con.

Các con của Minh Trị Thiên hoàng:

* Một hoàng tử, sinh ngày 18 tháng 9 năm 1873, nhưng qua đời cùng ngày, con của thị nữ Mitsuko
* Một công chúa, sinh ngày 13 tháng 11 năm 1873, nhưng qua đời cùng ngày, con của thị nữ Natsuko
* Mai cung Công chúa Shigeko, (25 tháng 1 năm 1875 – 8 tháng 6 năm 1876), con của thị nữ Naruko
* Kiến cung Thân vương Yukihito, (23 tháng 9 năm 1877 – 26 tháng 7 năm 1878), con trai của thị nữ Naruko
* Hoàng thái tử, Minh cung Thân vương Yoshihito
* Tư cung Công chúa Akiko, (3 tháng 8 năm 1881 – 6 tháng 9 năm 1883), con của thị nữ Kotoko
* Tăng cung Công chúa Fumiko, (26 tháng 1 năm 1883 – 8 tháng 9 năm 1883, con của thị nữ Kotoko
* Cửu cung Công chúa Shizuko, (10 tháng 2 năm 1886 – 4 tháng 4 năm 1887), con của thị nữ Sachiko
* Chiêu cung Thân vương Michihito, (1887 – 1888), con của thị nữ Sachiko
* Chiêu cung Công chúa Masako, (30 tháng 9 năm 1888 – 8 tháng 3 năm 1940), con của thị nữ Sachiko
* Chu cung Công chúa Fusako, (28 tháng 1 năm 1890 – 11 tháng 8 năm 1974), con của thị nữ Sachiko
* Phú cung Công chúa Nobuko, (7 tháng 8 năm 1891 – 3 tháng 11 năm 1933), con của thị nữ Sachiko
* Mãn cung Thân vương Teruhito, (1893 – 1894), con trai của thị nữ Sachiko
* Thái cung Công chúa Toshiko, (11 tháng 5 năm 1896 – 5 tháng 3 năm 1978) con của thị nữ Sachiko
* Trinh cung Công chúa Takiko, (1897 – 1899), con của thị nữ Sachiko

theo viet-sse
[/fontthuong]
Hình ảnh
...những bài viết, những dòng bình luận của bạn sẽ làm diễn đàn ngày một phát triển.
Hình đại diện của thành viên
admin
Quản trị diễn đàn
Quản trị diễn đàn
 
Bài viết: 2278
Ngày tham gia: 17 Tháng 2 2011
Đến từ: Hà Nội


Quay về Lịch sử Nhật Bản

Ai đang trực tuyến?

Đang xem chuyên mục này: Không có thành viên nào đang trực tuyến.1 khách.

cron